Showing posts with label Diễn đàn thpt. Show all posts
Showing posts with label Diễn đàn thpt. Show all posts

Jun 28, 2012

Đọc hiểu bài "Chiều tối" của Hồ Chí Minh


CHIỀU TỐI
HỒ CHÍ MINH



1. Nhật kí trong tù là tập thơ có giá trị văn học rất lớn của Hồ Chí Minh, được viết bằng chữ Hán nên có rất nhiều điểm gần với thơ Đường. Với những bài Đường luật xinh xắn về hình thức, nồng nàn về cảm xúc,... tác phẩm thể hiện tài năng, tấm lòng, tâm huyết và nhân cách Hồ Chí Minh với cả hai tư cách nghệ sĩ và chiến sĩ.

2. Bài thơ Chiều tối đã thể hiện đầy đủ và khá điển hình đặc điểm cơ bản nhất của toàn bộ cuốn nhật kí bằng thơ của Hồ Chí Minh, đó là vẻ đẹp cổ điển về hình thức và hiện đại về cảm hứng, toát lên phong thái ung dung tự tại của một người Cộng sản. Dù trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào, Người cũng phát hiện được những vẻ đẹp giản dị mà đáng quý của cuộc sống. 

3. Bài thơ tả cảnh chiều tối ở một sơn thôn. Bức tranh phong cảnh ấy được bố cục làm hai phần :

 Hai câu đầu : tả cảnh vật trong buổi chiều tối. Tất nhiên đây là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù, vì vậy nó là cảnh thật nhưng có ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất hoạ, vừa có khả năng gợi cảm. Sự mệt mỏi của cánh chim, sự cô đơn của đám mây chiều là tâm trạng của người tù đang tha phương.

 Hai câu sau : bức tranh bừng sáng bởi "lô dĩ hồng". Bản lĩnh cứng cáp đã giúp người tù nhanh chóng thoát khỏi cô đơn và mệt mỏi để phát hiện ra sức sống. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống.

Bài thơ thể hiện tài năng sáng tạo thơ "thi trung hữu hoạ" của Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện bản lĩnh của người cộng sản.

4. Chiều tối là bài thơ tiêu biểu rút trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại một cách chân thực cảnh người tù sau một ngày chuyển lao mệt nhọc. Ở đó người đọc nhận ra thế giới tâm hồn người tù Hồ Chí Minh là tình yêu thiên nhiên cuộc sống tha thiết, là khao khát ý chí và bản lĩnh người cách mạng. Bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh : vừa cổ điển, vừa hiện đại.

Hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên mở ra những hình ảnh cụ thể : cánh chim, chòm mây, bầu trời, núi rừng.

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không ;
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không ;)

Không gian rừng núi có vẻ âm u hoang vắng gợi ra sự rộng lớn mênh mông. Thời gian chiều ngả dần về tối là thời gian nghệ thuật quen thuộc trở đi trở lại trong các tác phẩm thi ca. Nghệ sĩ xưa thường mượn thời gian chiều tối để gửi gắm tiếng lòng mình, để nương náu nỗi buồn của mình. Ca dao xưa có câu :

Chim bay về núi tối rồi
hay trong Truyện Kiều :
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành.

Đọc câu thơ của Hồ Chí Minh khiến người đọc nhớ tới những tứ thơ của người xưa, ý thơ mang đậm sắc thái cổ điển.

Nỗi lòng, tâm trạng người tù sau một ngày chuyển lao vất vả, nhọc nhằn, mệt mỏi được hiện lên qua hình ảnh cánh chim mỏi mệt. Nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" được sử dụng thành công khiến người đọc không chỉ cảm nhận được tiếng nói của tâm trạng con người. Chòm mây trong cái nhìn của người tù là chòm mây cô đơn. Người đọc không chỉ cảm nhận được sự nhọc nhằn, mệt mỏi của người tù mà còn thấy được cả nỗi cô đơn, buồn khổ của người tù trong cảnh ấy. Bản dịch thơ chưa dịch hết nghĩa nguyên tác, không dịch được chữ cô trong cô vân. Bởi vậy lời dịch không làm bật lên sự cô đơn lẻ chiếc của cảnh vật cũng như nỗi cô đơn trong lòng người. Từ láy mạn mạn được dịch là "trôi nhẹ" gợi cảm giác nhẹ nhàng, thư thái. Trong cảm nhận của người tù, áng mây chầm chậm, lững lờ trôi trên bầu trời trong cảm giác cô đơn. Người ta tưởng chừng áng mây như ngưng đọng giữa bầu trời chiều. Có một sự vận động mệt mỏi, ý thơ khác hẳn với cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, lãng mạn mà "trôi nhẹ" đem lại. Bức tranh thiên nhiên có vẻ hoang vắng, tĩnh lặng, thấm nỗi buồn cô đơn của con người. Hai câu thơ không có một từ nào trực tiếp miêu tả người tù và tâm trạng người tù nhưng qua đó vẫn ẩn chứa hình ảnh người tù trong sự mệt mỏi, nhọc nhằn, trong nỗi buồn và sự cô đơn.

Tất cả cảnh vật thiên nhiên : cánh chim, chòm mây, bầu trời đều là những cảnh vật được cảm nhận từ trên cao, trong không gian cao rộng, khoáng đạt. Người ta nhận ra tư thế người tù  tư thế của một con người luôn ngẩng cao đầu với một ý chí, nghị lực mạnh mẽ, với một tâm hồn rộng mở đón nhận vạn vật vào trong lòng mình. Hai câu đầu diễn tả nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nhưng không gợi cảm giác bi luỵ bế tắc mà vẫn hé mở bản lĩnh, ý chí, nghị lực phi thường của người tù cách mạng.

Nếu như hai câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên thì hai câu sau miêu tả bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người :

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.)

Hình ảnh "cô em xóm núi" trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh. Hình ảnh con người xuất hiện trở thành tâm điểm của sự sống làm ấm áp cả bức tranh chiều tối hoang vắng, lạnh lẽo. Vẻ đẹp của bức tranh chiều tối được toát lên từ chính vẻ đẹp hoạt động của con người, thể hiện sự khoẻ khoắn, niềm tin và khát vọng mạnh mẽ của con người. Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại. Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn : ma bao túc, bao túc ma. Hoạt động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô. Ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng điều kì diệu chính ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà cùng nhịp điệu trong cuộc sống lao động của con người. Nhịp thời gian trở thành nhịp của sự sống. Tứ thơ của Hồ Chí Minh có sự vận động mạnh mẽ, tự nhiên mà khoẻ khoắn.

Câu thơ thứ ba của bản dịch thơ dịch thừa chữ tối. Bài thơ không có từ tối nhưng thời gian tối của bức tranh được gợi ra từ chính hình ảnh "lò than rực hồng". Có một sự đối lập tương phản giữa ánh sáng của lò than với bóng tối của xóm núi. Chỉ cần nhìn lò than đỏ, người ta cũng nhận ra bóng tối đã về bao trùm vạn vật. Bút pháp "vẽ mây nảy trăng" được sử dụng thành công.

Bức tranh chiều tối đến đây không buồn bã, thê lương, ảm đạm mà tràn đầy sự sống ấm áp tươi sáng, từ nỗi buồn thương đến niềm tin vui thể hiện một hồn thơ luôn hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai.

Bài thơ kết lại bằng chữ hồng. Bài thơ mang tên Chiều tối nhưng không kết thúc bằng bóng tối mà kết thúc bằng ánh sáng màu sắc rực rỡ. Chữ hồng chính là nhãn tự của bài thơ, thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài. Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ hồng.

Bài thơ Chiều tối kết lại bằng niềm tin tưởng, bằng khát vọng dâng đầy của người cộng sản. Đặt trong thân phận tù ngục, người ta vẫn nhận ra hình ảnh một con người Hồ Chí Minh với tình yêu thiên nhiên rộng lớn, với một khao khát sự sống mạnh mẽ và một ý chí, nghị lực kiên cường, một niềm tin cháy bỏng.

(KĐH - Nguồn: Đọc hiểu Ngữ văn 11, NXB GD, 2007)

Bài thơ "Lai tân" của Hồ Chí Minh


Lai tân

Tác giả: Hồ Chí Minh

Nhật kí trong tù không phải là một lời thanh minh hay là lời cảm khái về thân phận long đong, cực khổ của một người tù. Và giá trị của Nhật kí trong tù cũng không phải ở chỗ đã xây dựng được “một biểu tượng lớn của Việt Nam và một phần nhân loại ở thế kỉ XX : hình tượng người tù, hình tượng người lưu đày”. Nhật kí trong tù đã tố cáo cái tính chất phi lí, bất công vốn là nét bản chất của chế độ xã hội thối nát Tưởng Giới Thạch”( ). Nội dung này được thể hiện rất rõ trong nhiều bài thơ của Bác. Việc Bác bị bắt cũng chính là hậu quả của chế độ bất công, vô nhân đạo của chính quyền Tưởng. Cũng là đại biểu đi dự hội nghị các nước Đồng minh chống phát xít, trong khi các đoàn đại biểu Mĩ, Anh được đón tiếp nhiệt tình thì Bác, đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh lại bị bắt giam.

Trong những ngày bị chính quyền Tưởng Giới Thạch
 giam cầm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được mắt thấy tai nghe bao nhiêu điều ngang trái chốn nhà tù. Chế độ nhà tù thối nát, vô nhân đạo đã được tái hiện trong nhiều bài thơ của Bác. Trong đó, Lai Tân là một bài thơ tiêu biểu cho nghệ thuật châm biếm thâm thuý của Bác.

I/ Giới thiệu chung
Bài thơ thuộc tập Nhật kí trong tù, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong những ngày Bác bị giam cầm trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch.

Thành công của bài thơ là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo, với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình với một kết cấu chặt chẽ.
 

Bài thơ có giọng điệu rất bình thản và khách quan. Bốn câu thơ chia làm hai phần, ba câu đầu và câu cuối. Ba câu đầu là giọng điệu tự sự, câu cuối thể hiện thái độ của Bác. Câu thơ cuối tạo nên tính chất bất ngờ cho toàn bài. Nội dung tư tưởng và giá trị của bài thơ được tập trung bởi sự mâu thuẫn giữa hai phần của bài thơ. 
II/ Tìm hiểu văn bản
1. Cảnh tượng nhơ nhớp, bẩn thỉu ở chốn tù ngục(3 câu đầu)
Ba câu đầu, tác giả lần lượt kể về “công việc” của các nhà chức trách. Mỗi người một việc và họ đều rất say mê với công việc của mình :

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh 

Chong đèn, huyện trưởng làm công việc
 
Chuyện đánh bạc của đám quan lính cai ngục đã được Bác nói đến trong nhiều bài thơ thuộc tập Nhật kí trong tù. Đánh bạc là việc chính của bọn cai ngục. Một điều rất phi lí là chính quyền bắt những người đánh bạc ở ngoài cho vào tù. Còn những kẻ cai tù, đại diện cho cái chính quyền coi đánh bạc là phạm pháp ấy lại ngang nhiên đánh bạc và hành động ấy là “chuyên”. Còn bọn quan lính giải người thì ăn đút lót, hành hạ người tù để họ phải nộp tiền cho chúng. Câu 1, giọng điệu khách quan thản nhiên. Đến câu 2, thái độ của người kể đã bắt đầu bộc lộ, dù rất kín đáo, với việc sử dụng cụm từ kiếm ăn quanh. “Kiếm ăn” chỉ hành động kiếm tiền một cách bẩn thỉu của những kẻ được coi là đại diện cho luật pháp.

Câu thứ ba, tác giả lại dùng lối nói châm biếm rất sâu cay, thâm thuý về việc làm của “huyện trưởng”. Có vẻ như huyện trưởng rất lo lắng cho việc công. Nhưng đặt câu thơ trong toàn bài, trong mối quan hệ với ba câu còn lại có thể hiểu ngay “làm công việc” của huyện trưởng là gì. Chắc chắn không phải là hết lòng với việc riêng. Nếu vị huyện trưởng say sưa với công việc như vậy thì không thể có chuyện “chuyên đánh bạc” và “kiếm ăn quanh” ở trên. Và tác giả cũng không thể dùng cụm từ vẫn thái bình ở câu bốn. Vậy, “chong đèn làm công việc” ở đây là say sưa bên bàn đèn thuốc phiện, bên chiếu bạc hay những công việc không mấy sạch sẽ trong đêm. 
2. Trời đất Lai Tân vẫn thái bình
Câu thơ cuối tạo nên kết cấu bất ngờ cho toàn bài thơ. Mâu thuẫn trào phúng, tính chất châm biếm của bài thơ được tạo nên bởi mâu thuẫn này. 
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Đây là kiểu thái bình giả tạo. Bộ máy chính quyền thối nát đến như thế thì làm sao có được thái bình cho dân chúng. Những kẻ đại diện cho chính quyền, có trách nhiệm đảm bảo sự ổn định, thái bình cho xã hội lại là những kẻ nhũng nhiễu nhiều nhất.

Hồ Chí Minh đã dùng văn thơ như một thứ vũ khí chiến đấu vô cùng sắc bén và có hiệu quả trong sự nghiệp cách mạng của mình. Và bút pháp trào phúng là bút pháp chủ lực tạo nên sức mạnh chiến đấu trong sáng tác của Người. Lai Tân là một trong những bài thơ sử dụng thành công bút pháp này. Bằng việc chọn phác hoạ hành động của mấy tên cầm quyền trong chính quyền Tưởng, Người đã khái quát hoá bộ mặt thối nát của xã hội Trung Quốc thời kì những năm bốn mươi của thế kỉ XX.
 

Bằng những thủ pháp nghệ thuật châm biếm, tài tình, bài thơ hướng tới mục đích đả kích mạnh mẽ sự thối nát vô nhân đạo của chế độ nhà tù nói riêng và chế độ XH Trung Quốc nói chung- thời 
Tưởng Giới Thạch 

KĐH - Nguồn: Chuẩn bị kiến thức Văn học 11