Feb 16, 2013

Ôn thi Đại Học - Bi kịch chí phèo

Đề ra: Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
HƯỚNG DẪN

I. MỞ BÀI

Nam Cao là đại biểu ưu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông là cha đẻ của những tác phẩm tên tuổi : “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời thừa”… trong đó Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao và cũng là kiệt tác của văn học hiện thực phê phán. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo và con đường tha hóa của người nông dân trước Cách mạng, Nam Cao đã khắc họa thành công tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo mang đến cho bạn đọc bao niềm xúc động sâu sắc. 

II. THÂN BÀI

1. Bi kịch là gì ? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát (có thể dẫn đến cái chết). Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, bi kịch nghệ thuật của nhà văn Hộ, bi kịch của Vũ Như Tô… nhưng bi kịch lạ lùng nhất là bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người” của Chí Phèo. 

2. Bi kịch ấy ngay từ đầu tác phẩm đã hiện lên qua tiếng chửi của Chí Phèo. Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi"hắn vừa đi vừa chửi". Đó là hình ảnh vừa quen vừa lạ. Quen vì đó là tiếng chửi của những thằng say rượu. Lạ vì hắn chửi mà không có ai chửi nhau với hắn, không ai lấy làm điều. Chí "chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn". Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo lại là“tiếng chó cắn lao xao”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa. Qua tiếng chửi ấy, ta nhận ra bốn thái độ: Thái độ của người chửi: hằn học, hận thù; thái độ người nghe: dửng dưng, khinh miệt; thái độ nhà văn: xót xa, thương cảm; thái độ người đọc: tò mò… Vậy Chí Phèo là ai? 

3. Bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi. Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực "hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến". Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị: "có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.



4. Bi kịch tha hóa, lưu manh là con đường dẫn đến bị cự tuyệt quyền làm người.Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc "cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết... cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế". Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh "con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: "Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện". Hắn làm những việc ấy trong lúc say " ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say... đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận". Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì "những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang". Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo. 



5. Gặp Thị Nở và khao khát hoàn lương. Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến "ma chê quỉ hờn", kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Có nhà phê bình đã cho rằng: Thị Nở là một sứ giả mà Nam Cao phái đến để thức tỉnh Chí Phèo. Đó là sứ giả của tình yêu thương và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Nhưng có lẽ cần phải nói thêm, Thị Nở không chỉ là vai trò sứ giả của lòng nhân đạo mà Thị còn là một “thiên sứ” của tình yêu. Vị thiên sứ này không có đôi cánh thiên thần nhưng có đôi tay đầy ắp tình người. Thiên sứ ấy như một ngọn gió, một ngọn lửa thổi vào tâm hồn của Chí. Nếu là gió, gió sẽ thổi bay lớp tro tàn đang vây quanh anh. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt cháy lớp vỏ quỷ dữ để trả về cho anh một con người.



Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về... Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Âm thanh cuộc sống này khiến ta liên tưởng đến tiếng sáo của đêm tình mùa xuân trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tiếng sáo đã lay động tiềm thức xa xôi của Mị, đánh thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một quá khứ đẹp tươi. Đó chính là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc làm nên chất thơ cho tác phẩm. Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí. Nó như cơn gió thổi tung đám tro tàn nguội lạnh, như từng giọt nước nhỏ vào tâm hồn sỏi đá, cằn khô làm tan đi giá băng tâm hồn. Hơn hết, nó làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ :"có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo đã cô đơn hơn bao giờ hết “Nhìn phía trước người thân chẳng có/ Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Hắn như đã thấy "tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc - cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau". Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.

Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Kỳ diệu làm sao bát cháo hành Thị Nở, một liều tiên dược vừa giải cảm vừa giải độc. Cháo hành đã tẩy ố đi men rượu, gột rửa những tội lỗi con người. Cháo hành có hương vị đặc biệt quá, những kẻ vô nhân tính như cha con nhà Bá Kiến làm sao mà biết được. Đó là hương vị của tình người, hương vị của tình yêu. Khi mà cả làng Vũ Đại không chấp nhận Chí là con người thì Thị Nở đã giang rộng vòng tay để đón lấy anh. Và bát cháo hành kia vô hình dung đã sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và mở đầu cho một mối thiên duyên. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Chí Phèo quen sống với một kiểu định nghĩa : Muốn có cái ăn hắn phải kêu làng, phải rạch mặt ăn vạ, hắn phải thực sự hóa thân vào con quỷ dữ... Mỗi miếng ăn hàng ngày của Chí đều có máu và nước mắt của những người dân lương thiện làng Vũ Đại. Nhưng hôm nay cái triết lý sống ấy của Chí dường như đã thay đổi, những gì hắn đã từng có giờ phản bội lại hắn trong hương cháo hành của người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn kia. Hắn hiểu rằng người ta sống với nhau không chỉ bằng tội ác mà còn bằng cả tình thương yêu nữa. Mắt hắn lần đầu tiên ươn ướt. Hơi cháo hành phảng phất phục sinh phần người trong Chí... Hắn có thể sống với người ta bằng tình yêu, hắn nhen nhóm một mơ ước về cuộc sống bình dị... Hương cháo là hương cuộc đời, hương tình yêu mà từ trước đến giờ chưa ai cho Chí cả... Bát cháo hành giản dị nhưng bao nhân tính ẩn chứa, nó giữ chân Chí Phèo đứng lại ở bờ của phần người... Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát "Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ...”.Đó là giây phút mà hắn người nhất. Đã hai lần chính Thị Nở đã phải thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền!" rồi “Những lúc tỉnh táo hắn cười nghe thật hiền”. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Phần quỷ tạm thời rũ bỏ. Đó là giây phút Chí "thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người". Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở "Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui". Ôi! Phải là lời của Chí Phèo đó không ? Nghe sao mà hiền lành, có chút gì ngờ nghệch, hồn nhiên mà lại rất đỗi chân thành. Lời cầu hôn không tình tứ như bao kẻ khác nhưng lại khiến cho trái tim chúng ta nghẹn ngào thương cảm. Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,... cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!



6. Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo. Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. 

Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi rượu không còn đủ sức để làm lu mờ lí trí con người thì nó sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí ấy. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe “thoang thoảng mùi cháo hành” rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con "khọm già", con "đĩ Nở" nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:

- Tao muốn làm người lương thiện ?

- Ai cho tao lương thiện ?

Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện ? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người! 

Tác phẩm Chí Phèo thông qua tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và lăng nhục của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. 

III. KẾT BÀI 

Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Tác phẩm Chí Phèo mãi mãi bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại. Có một nhà thơ đã từng viết rằng: "Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống - Nào có dài chi một kiếp người - Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách - Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai". Vâng! Gần một thế kỉ qua, giá trị nghệ thuật và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, vượt qua gió bụi thời gian, đã chứng minh sức sống mạnh mẽ, bất hủ của nó.

--------------------------
Thầy Phan Danh Hiếu

Feb 5, 2013

Phong tục ngày Tết cổ truyền

Mỗi nơi trên thế giới đều có những phong tục đón Tết khác nhau, có phong tục tồn tại và phát triển, có phong tục lại mất đi theo đà tiến hoá của xã hội. Riêng phong tục đón Tết của dân tộc ta bắt nguồn từ những điển tích, huyền thoại xa xưa xem ra có vẻ huyền bí. Nhưng nếu chúng ta tìm hiểu kỹ sẽ thấy nó mang nhiều ý nghĩa thực tế.

>> 
Phong tục ngày tết Việt Nam
>> Cách cúng lễ ngày Tết cổ truyền Việt Nam

Tục cúng Ông Táo
Thường lệ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, từ thành thị đến thôn quê, khắp nơi trong nước ta dân chúng làm lễ tiễn đưa Ông Táo. Người xưa cho rằng ngày ấy vua Bếp lên chầu Trời để tâu việc làm ăn, cư xử của gia đình trong năm. Qua đó nói lên tình cảm và lý trí của nhân dân ta đối với công việc bếp núc, nhằm đánh giá cao việc chăm sóc dinh dưỡng của đời sống con người và đánh giá lại việc ăn ở của mình trước khi bước sang năm mới.


Tục thả cá chép tiễn ông Táo về trời...

Tục dựng cây nêu
Một cổ tục của ngày Tết Việt Nam là tục dựng cây nêu. Cây nêu là một cây tre dài chừng 2,5 đến 3m dựng trước sân nhà vào tối đêm giao thừa. Trên ngọn nêu có buộc một cái bùa bát quái vẽ trên giấy đỏ, một chiếc giỏ con đựng trầu cau và những ống sáo, những miếng kim khí lớn nhỏ... Khi có gió va chạm vào nhau chúng phát ra những tiếng leng keng nghe rất vui tai.
Ở đây chỉ riêng cái việc dựng nêu trong sân để đón ông bà tổ tiên về ăn Tết cùng gia đình đã nói lên được tính dân tộc, thể hiện tình cảm "uống nước nhớ nguồn". Giỏ trầu cau treo ở cây nêu nói lên ý nghĩa lân bang, tình nghĩa xóm làng (miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu mời khách đến thăm nhà) và lòng yêu âm nhạc thể hiện ở những nhạc cụ mua vui đầu xuân treo trên ngọn nêu.
Tục chơi hoa kiểng
Hoa là linh hồn, hoa là cảnh sắc thiên nhiên trang điểm cho đời, nếu thiếu hoa thì còn gì là ngày Tết nữa. Vì vậy chưng hoa kiểng ngày Tết là một nhu cầu làm đẹp của dân tộc ta có truyền thống từ ngàn xưa, hơn nữa nó còn mang đậm nhiều ý nghĩa.

Trên bàn thờ gia tiên cắm những bông vạn thọ, trường xanh... với sắc hoa vàng rực, đã nói lên được điều ước mong của mọi người là năm mới khoẻ mạnh và trường thọ. Chưng cây hoa đào, hoa mai, với sắc đỏ thắm của đào và những cánh mai vàng rực là những ước mơ hy vọng về sự đổi mới của mọi người, của gia đình, của Tổ quốc - thể hiện phong cách lạc quan, tự tin.

Tục chưng mâm ngũ quả

Ngày Tết, ngoài các thức ăn cúng ông bà tổ tiên trên bàn thờ nhất thiết phải chưng mâm ngũ quả. Chuối là cái nền cho mâm ngũ quả, thứ đến là bưởi hoặc phật thủ, hai loại này bắt buộc phải có. Ba loại còn lại thì tuỳ loại quả có ở mỗi vùng khác nhau. Nhưng chung lại, mâm ngũ quả là những loại trái cây chứa nhiều chất dinh dưỡng, đáp ứng đủ cho nhu cầu hoạt động của con người. Vì vậy, chưng mâm ngũ quả ngày Tết là một ý nghĩa nói lên ước vọng của gia đình bước sang năm mới được no đủ.

Tục chúc Tết
Tết Nguyên đán là những ngày trang trọng, vui tươi nhất của dân tộc ta. Cũng là dịp để mọi người có điều kiện thăm hỏi lẫn nhau: con cháu thăm hỏi cha mẹ, chú bác, ông bà; học trò thăm hỏi thầy cô; gặp mặt bạn bè chúc tụng...

"Mồng một là Tết nhà cha": Sáng mồng một Tết, sau khi lễ gia tiên, người con (hoặc dâu hoặc trưởng) mời cha mẹ ngồi vào hai ghế tựa ở giữa nhà, các con cháu đứng theo thứ tự ngôi thứ: anh chị trước, các em sau, sau cùng là các cháu, mọi người đều mừng thọ và tế sống ông bà, cha mẹ bằng hai lạy và hai vái (người chết thì bốn lạy, bốn vái). Ông bà cũng mừng tuổi các con cháu bằng phong bao được gói bằng giấy hồng điều.

"Mồng hai nhà mẹ": Sáng mồng hai Tết, cha mẹ dẫn đoàn con cháu về quê ngoại chúc tết. Tuần tự lễ tưởng niệm tổ tiên: mừng thọ ông bà ngoại theo nghi thức ở nhà cha, mừng tuổi bà con thân thích bên ngoại và được mừng tuổi lại. Cả hai gia đình cùng chuyện rò vui vẻ và ăn cỗ đầu xuân, càng làm cho tình nghĩa hai gia đình thêm thắm thiết.

"Mồng một là Tết nhà cha, Mồng hai nhà mẹ..." - điều đó chứng tỏ ông cha ta rất coi trọng chữ hiếu, chọn hai ngày đầu năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ hai gia đình nội, ngoại vì hiếu thảo là gốc của đạo đức gia đình.
"...Mồng ba Tết thầy": Công ơn cha mẹ sinh thành, dưỡng dục, công ơn thầy giáo dục tư cách đạo đức, mở mang trí tuệ cho mình, vì thế "công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy" đều được nhân dân ta coi trọng.

Tục chúc Tết là một nét đẹp văn hoá thể hiện được lòng quan tâm lẫn nhau, chung vui xuân và đem tặng nhau ý lành, lời ngọc và niềm hy vọng tốt đẹp cho nhau.

Sau cùng những kiêng cữ ngày Tết như: cha mẹ nhịn quở mắng, anh em nhịn cãi nhau... là những ý muốn tốt lành, nhân ái thể hiện nếp sống văn minh và gia đình có văn hoá.

Phong tục ngày xuân là những nét đẹp của đất nước, của dân tộc luôn sống mãi với thời gian. Ðây là những phong tục đẹp của nhân dân ta đã coi trọng ân sâu và thái độ ứng xử tinh tế có nghĩa, có tình trong đời sống.

Xuất hành
Đầu năm mới, người Việt còn có tục xuất hành. Xuất hành là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần...

Thường thường, người ta theo các hướng tốt, xuất hành đi lễ chùa, đền hoặc đi chúc Tết các bậc huynh trưởng, thân quyến hay bằng hữu. Đối với nhà nông ngày xưa, đầu năm mới xuất hành còn để chiêm nghiệm thời tiết. Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi, người ta có thể đoán được năm mới hên hay xui, chẳng hạn:
- Gió Nam: chỉ đại hạn
- Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc
- Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả
- Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải
- Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu
- Gió Đông: chỉ có lụt lớn....

Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người mình còn có tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục "hái lộc". Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si, cây xương rồng... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc này thường đem về cắm ở bàn thờ Tổ Tiên.

Thú chơi câu đối Tết
Mỗi năm, khi Tết đến, từ thành thị tới các làng quê, cùng với việc mua sắm hàng Tết, dựng cây nêu, người ta không quên mua dăm quả cau, bao chè tới xin câu đối cụ Nghè, cụ Cử.

Câu đối thờ viết trên giấy đỏ dán ở cột, ở cửa nhà nội dung thường bày tỏ lòng biết ơn của cháu con đối với tiên tổ:

Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên
(Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân;
Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết)
Ở làng trang Đông Hồ câu đối trên đã được cải biên chút ít và đưa vào bộ tranh chủ treo ở bàn thờ gia tiên, hai bên là chữ Phúc, chữ Thọ và đôi câu đối:

Từ thời xuân tại thủ
Ngũ phúc thọ vi tiên

Những chữ Hán được trang trí cách điệu: một bên là con rồng, một bên là con phượng trên nền giấy điểm xuyết hoa, lá, chim muông.

Những câu đối này thường kèm theo mấy chữ đại tự cũng viết trên giấy đỏ treo thành bức hoành:

"Ấm hà tư nguyên" (Uống nước sông nhớ đến nguồn); "Ðức lưu quang" (Ðức chan hoà ánh sáng).

Dịp Tết còn có các câu đối tức cảnh xuân của các bậc văn hay chữ tốt, cũng được viết trên giấy đỏ treo ở cổng. Vậy tục treo câu đối Tết có từ bao giờ? Sách xưa có kể phong tục của người dân Bách Việt, trong ngày Tết Nguyên đán theo bùa gỗ có hình hai vị thần Thần Ðồ và Uất Luỹ treo hai bên cửa ngõ. Ðó là hai vị thần sống dưới gốc đào lớn dưới núi Ðộ Sóc chuyên cai quản đàn quỷ, hễ quỷ nào "phá rào" đi làm hại dân thì thần hoá phép trừ đi. Sau này việc treo bùa gỗ "Ðào phù" được thay bằng câu đối hai bên cửa.

Ðời sống hấm khá dần, mỗi người, tuỳ hoàn cảnh, gửi gắm vào câu đối những ý tứ, những niềm vui cùng ước vọng vào một năm mới đang đến. Vào thế kỷ 15, thú chơi câu đối Tết đã trở nên phổ biến, khắp Kinh kỳ, từ dinh thự của quan lại tới các tư gia, đâu đâu cũng treo câu đối Tết.

Lại có cả cấu đối nói về nghề nghiệp dán ở cửa hàng, cửa hiệu. Tương truyền, vào một năm, sắp tới giao thừa, vua Lê Thánh Tông ra phố phường xem dân ăn tết. Thấy một nhà không treo câu đối, vua vào hỏi, biết đó là nhà một người thợ nhuộm vợ goá, con trai đi vắng, vua bèn lấy giấy bút và viết.

Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ;
Triều đình chu tử tổng ngõ gia.
(Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ Ðỏ tía triều đình tự cửa ta)

Cùng với chữ Hán, nhiều danh sĩ nước ta còn viết câu đối Tết bằng chữ Nôm. Ðầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã sử dụng tài tình chữ viết của dân tộc, đưa cả ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào câu đối. Trong 67 câu đối hiện còn của cụ thì 47 câu đối Nôm. Ðây là cảnh Tết của một nhà nghèo mà lòng vân phơi phới sắc xuân khi giao thừa sắp đến:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Hiểu rõ vần xoay của tạo hoá, cụ ước ao.
Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái
Tết ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.

Cách cúng lễ ngày Tết cổ truyền Việt Nam

Trong ngày Tết, người Việt rất coi trọng phong tục thờ cúng tổ tiên, trời đất nhưng không phải gia đình nào cũng biết và tuân thủ theo đúng các nghi lễ cần thiết.

>> 
Phong tục ngày Tết cổ truyền
>> Phong tục ngày tết Việt Nam

Dịp này, PGS. TS. Phan Thị Yến Tuyết - Giảng viên khoa Việt Nam học, trường Đại học KHXH & NV TP.HCM chia sẻ cùng độc giả cách chuẩn bị mâm cỗ cúng đúng “chuẩn”.

Mâm cúng ngày Tết thường thấy nhất
1. Lễ tiễn ông Táo về trời
Tết của người Việt bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, ngày đưa ông Táo về trời để ông báo cáo việc làm ăn trong năm của gia đình với Ngọc Hoàng. Mâm lễ cúng ông Táo có hương, nến, hoa quả, vàng mã, hai chiếc mũ cánh chuồn của đàn ông, một mũ đàn bà (không có cánh chuồn), ba cái áo giấy và một con cá chép (cá thật hoặc làm bằng giấy).

Lễ cúng thường diễn ra trước 12 giờ trưa ngày 23. Cúng xong, đồ lễ được hóa vàng. Từ Nghệ An trở ra Bắc, dân gian cúng cá chép sống rồi phóng sinh hoặc nuôi trong giếng để cá trông coi gia đình. Dân vùng Nam Trung Bộ lại quan niệm lễ ông Táo chủ yếu là lòng thành, có gì cúng nấy nên rất dân dã. Đặc biệt, lễ cúng vùng này có bánh cốm làm bằng bột nếp rang nở, ở miền Nam là món bánh mè hay còn gọi là “thèo lèo”.

2. Lễ cúng Tất niên

Dân gian cúng Tất niên vào chiều 30 khi nhà cửa đã dọn dẹp xong xuôi, trang hoàng hương đèn, hoa tươi, mâm ngũ quả đón Tết.
Bàn thờ Tất niên có hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và hai bát hương, trước có hai ly nước trong (nước thiêng). Phía sau đèn thường có hai cành hoa cúc giấy hoặc “cành vàng lá ngọc” bằng vàng mã. Giữa bàn thờ là khúc trầm hương hình trôn ốc, mâm ngũ quả, hai bên bàn đặt hai cây mía làm gậy cho các cụ.

Ngoài trầu cau, bánh chưng, lễ Tất niên còn có cỗ mặn: xôi gấc, thịt gà, giò chả, nem, canh măng, miến… Ngày 30 Tết, nhiều gia đình còn có lễ Chạp (Tảo mộ): thăm, sửa sang mộ phần, rước vong linh người đã khuất về hưởng Tết; hoặc có thể cúng tại gia vào chính ngọ (trưa).

3. Lễ cúng Giao thừa

Giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày mồng Một tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất dịp Tết. Để đánh dấu thời khắc này, dân gian làm hai mâm cỗ cúng Giao thừa hay còn gọi là lễ Trừ tịch: mâm cúng bàn thờ gia tiên trong nhà và mâm cúng thiên địa ở sân trước.

Mâm lễ gồm hương, hoa, đèn, nến, bánh chưng, đĩa xôi gấc, vàng mã và các món ăn mặn ngày Tết. Tuy nhiên, lễ vật quan trọng nhất mâm lễ là con gà trống hoặc chân giò heo (năm xung với gà thì cúng lợn và ngược lại).
Gà cúng Giao thừa là gà giò (gà trống choai, không cúng gà mái) nặng chừng 1,2 -1,5 kg. Đem gà mổ moi, luộc chín, bày ra đĩa cùng tiết, lòng bày dưới bụng. Chùa chiền cũng cúng Giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay.

4. Lễ Tân niên

Lễ Tân niên thường được cúng vào mồng Một, mồng Hai và mồng Ba nhưng quan trọng nhất là lễ cúng mồng Một Tết. Lễ cúng Tân niên thường diễn ra vào buổi sáng, cỗ cúng có đầy đủ các món ăn của ngày Tết. Sau khi cúng xong, con cháu thụ lộc tổ tiên rồi mới đi chúc Tết, thăm họ hàng. Mồng Hai, mồng Ba Tết cũng cúng tương tự mỗi ngày một lần.

Ở một số vùng như Nam Trung Bộ, mâm cúng mồng Một là cỗ chay: bánh kẹo, bánh chưng chay (nhân đậu). Đặc trưng trong văn hóa ẩm thực ngày Tết của người Việt chính là mâm cỗ Tết. Mỗi vùng một phong tục khác. Tuy nhiên, mâm cỗ ngày Tết nhìn chung không thể thiếu các món thịt gà, bánh chưng, dưa hành, dưa kiệu. Miền Bắc có thêm xôi gấc, nộm, chả giò. Miền Nam là món khổ qua nhồi thịt, thị kho tàu…

5. Lễ Hóa vàng
Lễ Hóa vàng tiến hành vào mồng Ba Tết hoặc mồng ngày khai hạ (mồng Bảy Tết). Trong ngày này, người Việt làm lễ cúng tạ tổ tiên và đốt nhiều vàng mã để tiền nhần mang về cõi âm.

Tại một số vùng đồng bằng Bắc bộ, dân gian có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia. Lễ vật dâng cúng trong lễ Hóa vàng gồm hương, hoa, nước quả (ngũ quả), trầu cau, rượu, đèn, nến, bánh kẹo; cỗ mặn: xôi, gà, bánh chưng. Trong lễ Hóa vàng, gia chủ phải bày lên mâm cúng tất cả các món có trong nhà vào dịp Tết mà chưa kịp dâng lên tổ tiên.
Theo Thế giới gia đình

Phong tục ngày tết Việt Nam

Thời buổi hiện đại ngày nay, nhịp sống luôn hối hả, tất bật khiến một số gia đình cũng như các bạn trẻ dường như lãng quên đi cái Tết truyền thống của dân tộc Việt Nam, cái không khí đầm ấm rất riêng của những ngày này. Điều này thật đáng buồn nhưng may mắn là phần đông các gia đình Việt Nam vẫn giữ được nét văn hóa tốt đẹp này, chúng ta cùng điểm qua những phong tục tập quán và một số nét đặc trưng ngày Tết bạn nhé .


Tết Quý Tỵ 2013

1) Tranh dân gian ngày tết:

Trong tất cả các loại tranh tết Việt Nam, có lẽ đa dạng và độc đáo nhất là tranh dân gian. Đây là loại tranh trường tồn cùng lịch sử, không trau truốt cầu kỳ như các loại tranh khác mà mang đậm tính dân tộc. 

Trong các làng tranh dân gian Việt Nam, nổi bật nhất là làng tranh Đông Hồ, nằm ở ven sông Đuống. Tranh được làm từ giấy dó, quét phủ một lớp điệp óng ánh làm cho màu in thêm rực rỡ. Từ thời xa xưa, tranh dân gian Đông Hồ đã nổi tiếng là rẻ và đẹp, được nhiều nơi ưa thích. 

Ở phố Hàng Trống (Hà Nội) cũng có nhiều người làm tranh dân gian, nhưng chủ yếu là vẽ tranh thờ (hổ, rồng, thần, thánh...). Họ làm bằng kỹ thuật kết hợp đường nét in đen từ bàn khắc gỗ với việc tô màu phẩm bằng tay. Nghệ sỹ vẽ tranh dùng bút màu quét phẩm nước, tạo nên những gam màu đậm nhạt lung linh. 



Mỗi bức tranh dân gian đều mang một ý nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con người. Dễ thấy nhất là tranh vẽ đàn gà, tượng trưng cho tình mẫu tử và sự sum họp đông vui. Tranh mẹ con đàn lợn tượng trưng cho cuộc sống no ấm và cảnh chăn nuôi ở nhà nông. 

Tranh gà trống sặc sỡ và oai vệ, tượng trưng cho ý chí kiên trung, bất khuất của trang nam nhi quân tử và cũng thể hiện cho 5 đức tính quý của con người: văn (vẻ đẹp – mào gà); vũ (cứng rắn – cựa gà); nhân (lòng thương yêu đồng loại – khi kiếm được mồi luôn gọi đàn đến cùng ăn); dũng (sức mạnh – gặp kẻ thù thì kiên quyết chống lại); tín (hàng ngày báo giờ rất đúng). Tranh gà đẹp và ý nghĩa như thế, nên nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã viết trong bài thơ Chợ tết: “Lũ trẻ còn mải ngắm bức tranh gà/ Quên cả chị bên đường đang đứng gọi”. 

Tranh đám cưới chuột là minh chứng sống động và hóm hỉnh cho quan hệ mạnh hiếp yếu trong xã hội. Chuột làm đám cưới phải lo lễ vật cống cho mèo, cầu xin mèo để yên cho đám cưới được tiến hành. 

Tranh đánh ghen thì có tính giáo dục những ông chồng hay trăng hoa, đề cao đức tính nhẫn nhịn của người vợ và vai trò của người phụ nữ trong xã hội.Tranh hứng dừa là cái cười tinh tế của dân gian trước sự hớ hênh ô tình của các cô gái... Tất cả đều là những sinh hoạt thường ngày của con người, được vẽ cách điệu tài tình, làm cho cuộc sống vui tươi, sống động.

Tranh dân gian cũng đã có số lượng khá nhiều về đề tài lịch sử như bà Trưng Trắc cưỡi voi xung trận, Ngô Quyền đánh Nam Hán, Đinh Bộ Lĩnh cờ lay tập trận... Đó là những bức tranh tạo nên sự hùng tráng và niềm tự hào dân tộc. Ngoài ra, có những bức tranh được đặc biệt yêu thích như tranh Phú quý (đứa bé tóc trái đào giữ con vật), Vinh hoa (cậu bé ôm con gà trống), Thất đồng (7 cậu bé hồn nhiên hái quả), Tứ tôn vạn đại (4 cậu bé nô đùa với những dây bầu trĩu quả)... 

Tranh dân gian được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng có điểm giống nhau là đều đề cao đạo lý làm người, giáo dục những phẩm chất tốt và cầu mong những điều tốt đẹp trong năm mới. Nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, nhất là mỗi khi tết đến xuân về. 

2) Những nét chấm phá ngày Tết:

Mùa Tết 


Từ 23 tháng chạp trở đi là bắt đầu vào thời kỳ rộn ràng của mùa Tết, tính từ mốc sự kiện "đưa ông Táo về trời" (một nghi thức tiễn đưa thần bếp lên chầu Ngọc Hoàng báo cáo lại tình hình trong năm của chủ gia) vào ngày này. Thiên hạ đua nhau nô nức mua sắm các vật dụng, đặc biệt là quần áo và thức ăn (việc buôn bán mùa Tết thường sẽ chấm dứt từ đúng ngọ ngày 29 hoặc 30 tháng chạp, từ khi đó lần đầu tiên trong năm, chợ búa trở nên vắng vẻ và các sạp trống không). Tại những bến xe tấp nập những người tha phương mua vé xe để trở về quê đoàn tụ cùng gia đình. Không khí lễ mỗi lúc một đầy ngập hơn, người người ai nấy đều nô nức rộn ràng chuẫn bị đón xuân. 
>>> Hướng dẫn chuẩn bị mâm cỗ cúng ông Táo

Chợ Tết 



Đấy là những chợ đặc biệt chỉ xuất hiện vào dịp Tết và chuyên buôn bán các loại "đặc sản" cho người dân hưởng xuân. Vì tất cả những người buôn bán hầu như sẽ nghỉ xả hơi trong những ngày Tết nên nảy sinh tâm lý mua dự trữ, đưa đến mức cầu rất cao. Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa kiểng, những loại trái cây, đặc biệt là dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài v.v... Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. 


Hương vị ngày Tết: bốn thức chủ lực "quốc hồn quốc túy" 

Khoảng rằm tháng chạp, củ kiệu tươi được bày bán đầy các chợ. Các bà nội trợ mua về cắt lấy phần củ trắng nỏn nà, phơi qua vài nắng cho khô quắt lại rồi cho vào những ve keo, kế đó cho vào các ve củ kiệu này giấm sôi nấu với đường, xong đậy kín lại. Vào vài buổi chợ giáp tết họ mua thịt heo mỡ, trứng vịt để chuẫn bị món dự trữ chủ lực: thịt kho nước dừa; thêm đôi ba xấp bánh tráng, giá để làm dưa giá nữa là xong. Không ai là người Việt mà không cảm khái thứ hương vị dân tộc và khó quên ấy: bánh tráng nhúng nước cho mềm, trải ra trên một tay, cho lên đấy một miếng thịt mỡ, một miếng hột vịt, vài ba củ kiệu, ít dưa giá rồi cuốn lại, chấm vào tô nước thịt kho dằm miếng ớt. Ngày tết hễ đói bụng, hay muốn nhậu, ngoài các thứ đều không thể thiếu được "thịt kho, dưa giá, củ kiệu, bánh tráng". Phải nhìn thấy chúng, nếm chúng, nuốt chúng xuống dạ dày mới gọi là thưởng thức được hương xuân trọn vẹn.Riêng người Bắc, thay vì củ kiệu, một số người dùng củ hành ta với cách làm cũng tương tự. Ve dưa hành có màu hồng như ngọc, trông rất đẹp và "may mắn". 

Màu của ngày Tết

Chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, màu chủ lực trong ngày Tết vẫn là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu phát tài và may mắn. Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa ánh đỏ như hồng, mãn đình hồng, hoa đào v.v... Trước đây khi pháo còn được cho phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ giao thừa đến rạng sáng tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết "mồng" mới thôi! Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết

Khái niệm thời gian 

Mùa Tết, không ai bảo ai, mọi người đều cùng nhau dẹp bỏ dương lịch và quay trở sang âm lịch rất tự nhiên, với những khái niệm thời gian trước tết gọi là “hăm” (ngày 20 tháng chạp âm lịch +): hăm mốt tết, hăm chín tết (nếu rơi vào tháng chạp thiếu sẽ không có ngày ba mươi tết), sau tết gọi là “mồng”: mồng hai tết, mồng tám tết... Âm lịch hồi sinh thật kỳ diệu như thể luôn nhắc nhủ mỗi người Việt Nam về tính dân tộc, cổ truyền của ngày lễ trọng đại, thiêng liêng nhất này.

3) Vì sao có tục kiêng đổ rác trong 3 ngày tết ?

Trong "Sưu thần ký" có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thủy thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mồng một Tết, Âu Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó kiêng không dám đổ rác ngày Tết. Tục kiêng đổ rác ba ngày Tết nên ngày 30, dù bận rộn đến đâu cũng phải dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ và những ngày Tết thì mọi người phải hết sức giữ gìn nhà cửa không vứt rác bừa bãi. 

4) Viết gì khi khai bút?



Sự "khai bút" này nhằm mong mỏi đón nhận được mọi sự tốt lành nhân năm mới tới. Thường thường người ta phải chọn ngày và giờ tốt để khai bút. Nhiều khi sự khai bút cũng chỉ có tính cách tượng trưng mà thôi; chẳng hạn như viết lên giấy hồng điều vài chữ: ngày, tháng, năm.... "khai bút đại cát" hay "tân xuân đại cát" (nghĩa là đầu năm mới khai bút để gặp được những điều tốt lành lớn). 

Đối với những danh sĩ thì đôi khi khai bút bằng cách làm một bài thơ đầu xuân bày tỏ nguyện vọng hoặc ý chí của mình. Những bài thơ khai bút này được viết lên giấy hồng điều (giấy màu đỏ) hoặc trên giấy hoa tiên (giấy có vẽ hoa) rồi dán bài thơ lên tường để thưởng xuân. Những người có chức vụ lớn như Tổng Đốc, Tuần Phủ, Tri Phủ, Tri huyện.... thì có lên Khai ấn và Khai triện. 
Tục này cũng thực hiện ở các bộ đường ở kinh đô Huế dưới triều Nguyễn. Ấn và triện là những con dấu của những người giữ chức vụ chỉ huy trong chính quyền. Các vị này nhân đầu năm làm lễ khai ấn, triện bằng cách đóng dấu vào những giấy tờ công văn để cầu mong cho "thiên hạ thái bình" và dân chúng an vui. 

Ngày nay, trong các gia đình, thường người khai bút là bậc trưởng bối trong nhà như ông nội, cha, hoặc con trai trưởng. Những người này chọn ngày, giờ tốt, viết lên giấy trắng những điều mong ước tốt đẹp cho gia đình, họ tộc, làng xã...trong năm mới. 


5) Tết Sài Gòn - Tết nắng :

Nắng Tết Sài Gòn là điều kỳ diệu với dân teen xứ Bắc, nắng Tết ấm cả trong tim người Sài Gòn.

Dưa hấu Tết 
Đất Sài Gòn lắm hội nhiều chợ, vui tưng bừng ngày đêm. Chợ nào chợ nấy bật đèn bán tới khuya lắc. Ngoài cổng chợ, người ta dựng lên mấy gian hàng sáng choang đèn, dán giấy đỏ choạch để bán bánh mứt, dưa hấu, trông nao nức lạ. Gian bán dưa chất bộn rơm. Những trái dưa tròn căng xanh bóng nằm ngoan ngoãn như lũ lợn con. Hồi năm trước, thấy cậu nhóc con chú Tư bán dưa ngồi trong một góc ăn cơm, cái tô cơm đỏ rực. Dòm lom lom một hồi mới biết nhóc ăn cơm… với dưa hấu. Hỏi “Ngon hông cưng” thì gật đầu lia: “Ngon chớ chị, má nói ăn dưa hấu mát ruột!” Chú Tư thở đánh phều “Đợt này dưa dập quá trời đất, bỏ hết thì uổng, phải cắt phần lành cho sắp nhỏ ăn đỡ”. Nhưng năm nay thì khác, đợt dưa nào chở về nhà chú Tư cũng bán sạch sành sanh. 

Ra chợ, bạn không chỉ mua hàng Tết mà còn mua được những nụ cười khấp khởi vui của người bán hàng và cả người mua hàng. Mùa hoa Tết Hai bên đường Kha Vạn Cân (Thủ Đức) là nhà vườn trồng mai bự nhất thành phố, “lé mắt trông ngang” thấy nhà vườn lặt lá mai mà xốn xang trong dạ: “Chèn, sắp Tết rồi đó cà”. Dăm bữa nữa chứ nhiêu, là từ mấy nhánh mai khẳng khiu trụi lá đó sẽ đâm ra những búp, những nụ tròn ủm xanh mướt, đợi đúng đêm giao thừa bung nụ xòe hoa vàng. Nhiều teen Sài Gòn hồi hộp đợi ngày “đánh hàng hoa” dưới Sa Đéc lên. 

Hoa của dân teen bán, nên chậu nào cũng dán xanh đỏ tím vàng sặc sỡ. Có chậu còn được thắt nơ xinh xinh. Một hôm đạp xe lòng vòng dọc đường Phan Huy Chú tìm mua chậu hoa con con thì lạc vào mấy ngõ hẻm quanh quanh. Một khoảnh be bé trồng mãn đình hồng và cúc vạn thọ hiện ra rực rỡ. Đây là mảnh đất trồng hoa hiếm hoi còn sót lại của làng hoa Gò Vấp nức tiếng một thời. Bác chủ khoảnh hoa cười hề hề khi thấy cả đám nhí nhố ào vào… xin chụp hình. Nghe bác ý nói “Hờ, bây cứ chụp đi, qua mùa Tết này bác hết trồng bông rồi” mà tự dưng nghe tiêng tiếc cái chi chi. 

Mùa ngon ngon 
Mấy sáng nay ra chợ thấy mấy cô mấy chị í ới gọi nhau đi lựa củ kiệu, củ cải, dưa hành về muối. Món này ăn với bánh chưng luộc hay bánh chưng chiên là ngon dzách lầu. Nghỉ Tết, được mẹ giao xắt củ cải thành sợi và lột vỏ kiệu. Xế chiều trèo lên ban công phơi mâm củ, thấy nhà bên cạnh có “tên nhóc” cũng đang lụi cụi phơi củ hành. Hắn cười hí hí “Này, mai kia anh đem dưa hành muối đệ nhất qua cho, nhóc cũng nhớ cho lại anh tí tí củ cải muối nhé”. Sài Gòn được ăn Tết đủ các miền. 

Mẹ mình người Nam nên hay làm món củ cải. Còn hai bác láng giềng ngoài Bắc vào, năm nào cũng làm món thịt đông (dù đông bằng tủ lạnh) cho… đỡ nhớ ngoài kia, và luôn đem cho nhà hàng xóm một ít “ăn lấy thảo”! Dì Bảy dưới Bến Tre lên thăm xách theo cả bao dừa. Biết mình thích, mẹ cặm cụi nạo dừa, sên dừa làm mứt. Buổi cuối đi học thêm Anh văn trước khi nghỉ Tết, mẹ dúi vào tay bọc mứt dừa còn âm ấm, mềm chứ không cứng và nhiều đường như ngoài chợ, ăn sướng tê lưỡi. Mứt mềm thế, nhưng tay mẹ thì cứng ngắc vì phải ngồi đảo dừa trong chảo liên tục cả ngày trời! Tết Sài Gòn ấm không chỉ nhờ có nắng! (Vietnamnet)

6) Thiệp chúc tết có từ bao giờ ?

Năm 1843, Hoàng đế Anh đã nhờ một họa sĩ thiết kế tờ thiếp mừng Noel. Từ đó về sau, từ một tháng trước ngày Noel, người ta đã bắt đầu gửi cho nhau thiếp mừng. 
Ở Việt Nam và nhiều quốc gia châu Á, người ta gởi thiệp chúc mừng nhau vào dịp Tết Nguyên đán, là ngày lễ quan trọng nhất trong năm. Ngày nay, việc gởi thiệp chúc mừng có trong nhiều dịp lễ, Tết, Noel, sinh nhật... 


7) Tác dụng chữa bệnh của một số loại quả trong mâm ngũ quả:

Quả bưởi (quả bòng): người Thái gọi là cọ phúc, thuộc họ cam quýt - Rutaceae. - Lá bưởi có tác dụng chữa cảm (dùng cùng một số lá khác để nấu nồi thuốc xông chữa cảm sốt). 
- Vỏ bưởi dùng chữa đầy chướng bụng, bí tiểu. 
- Vỏ hạt bưởi có chất pectin để cầm máu. - Múi bưởi giúp giải khát, dùng tốt cho người tiểu đường. 
- Hoa bưởi có hương thơm đặc biệt, dùng ướp trà và một số thực phẩm. 

Đu đủ: còn có các tên là phiêu mộc, phan qua thụ, mắc hung. Quả chín có tác dụng bổ dưỡng, rất tốt cho trẻ em và người cao tuổi, người mới khỏi bệnh. Đu đủ xanh chứa chất papain có tác dụng phân giải tế bào, giúp nấu thịt chóng mềm. Rễ đu đủ dùng làm thuốc cầm máu. Hoa đu đủ hấp đường phèn làm thuốc chữa ho cho trẻ em khàn tiếng. Ở châu Phi, dân gian còn dùng lá đu đủ để chữa khối u. 

Quả hồng: tên khác là thị đinh. 
- Tai quả hồng còn có tên Thị đế dùng chữa khí nghịch - nấc. 
- Thị sương là chất đường tiết ra từ quả hồng; dùng chữa đau rát họng, khô họng. 
- Thị tất là nước ép từ quả hồng xanh, dân gian dùng chữa cao huyết áp. 

Hồng xiêm: (hình như di thực từ Thái Lan nên có tên này). Tên khác: Tầm lửa, Sacoche, Saboche. Tên khoa học: Sapota achras. 
- Nhựa hồng có tác dụng kích thích tiêu hóa.
- Vỏ quả chữa tiêu chảy 

Chuối: là loại quả giàu dinh dưỡng, tốt cho người cao tuổi và trẻ em bị táo bón. Không dùng chuối cho người tiểu đường. Chuối hương phối hợp bột lòng đỏ trứng gà dùng chữa trẻ suy dinh dưỡng. Như vậy, mâm ngũ quả là tâm sự gửi gắm của mỗi gia đình, nói lên lòng biết ơn trời đất, tổ tiên, ước muốn đầy đủ và sung túc, hòa hợp như năm sắc màu của thiên nhiên trong ngũ hành. 


8) Ý nghĩa ngày tết:

Người Việt ăn mừng TẾT với niềm tin thiêng liêng TẾT là ngày đoàn tụ, là ngày làm mới, là ngày tạ ơn và là ngày của hy vọng.... Ngày Đoàn Tụ - TẾT luôn luôn là ngày đoàn tụ của mọi gia đình. Dù ai buôn bán, làm việc hay đi học ở xa, họ thường cố gắng để dành tiền và thời giờ để về ăn TẾT với gia đình. 

Đó là nỗi mong mỏi của tất cả mọi người, người đi xa cũng như người ở nhà đều mong dịp TẾT gặp lại nhau. TẾT cũng là ngày đoàn tụ với cả những người đã chết. Từ bữa cơm tối đêm 30, trước giao thừa, các gia đình bên Phật giáo đã thắp nhang mời hương linh ông bà và tổ tiên đã qua đời về ăn cơm vui TẾT với các con các cháu. 

Ngày TẾT người ta cũng hay thực hiện những nghi lễ, để dâng hương lên các vị thần theo huyền thoại là người ban phước cho gia đình chúng ta được nhiều sức khỏe, nhiều tiền tài, nhiều may mắn và an vui hạnh phúc trong năm vừa qua. Ngày Làm Mới - TẾT là ngày đầu tiên trong năm mới, mọi người có cơ hội ngồi ôn lại việc cũ và làm mới mọi việc. Việc làm mới có thể về hình thức như dọn dẹp, quét vôi, sơn sửa trang trí lại nhà cửa. Hoặc làm mới lại về phần tình cảm và tinh thần của con người, để mối liên hệ với người thân được cảm thông hơn hoặc để tinh thần mình thoải mái, tươi mát hơn. Sàn nhà được chùi rửa, chân nến và lư hương được đánh bóng. 

Bàn ghế tủ giường được lau chùi phủi bụi. Người lớn cũng như trẻ con đều tắm rửa gội đầu sạch sẽ, mặc quần áo mới may bảnh bao. Bao nhiêu mối nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới để xả xui hay để tạo một sự tín nhiệm nơi người chủ nợ. Với mỗi người, những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tối thiểu ba ngày TẾT, mọi người cười hòa với nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối liên hệ được tốt đẹp.

Người mình tin rằng những ngày TẾT vui vẻ đầu năm sẽ báo hiệu một năm mới tốt đẹp sắp tới. TẾT là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là mừng nhau thêm một tuổi. Ngày của lạc quan và hy vọng - Năm cũ đã qua mang theo mọi xui xẻo và năm tới sắp đến mang theo đầy niềm tin lạc quan. Nếu năm cũ khá may mắn, thì tin sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau. 

Ngày TẾT người ta đốt pháo nhiều để xua đuổi ma xui xẻo đi và đồng thời người ta múa rồng múa lân sư tử khắp mọi nơi, nhất là những cửa hàng buôn bán để rước may mắn thịnh vượng về. Mùa TẾT cũng là mùa cưới hỏi. Các cặp trai gái thích làm đám cưới vào dịp đầu năm, mùa xuân đất trời đang đẹp và đang mùa hy vọng. Họ hy vọng cho một cuộc đời mới vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau và sẽ có đàn con ngoan. Ngày Tạ Ơn - Người Việt chọn ngày TẾT làm cơ hội để tạ ơn ân nghĩa mình đã được hưởng năm vừa qua. Con cái tạ ơn cha mẹ, cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, cấp chủ nhân cũng cám ơn nhân viên qua những buổi tiệc đãi hoặc quà thưởng để ăn tết.


Sưu tầm

Mẹ ơi! Tết này con không về !!!

Nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ gia đình, bè bạn khiến tôi chỉ muốn trở về nhà ngay lúc này.

Mùa xuân năm nay là mùa xuân thứ 22 trong cuộc đời tôi nhưng là mùa đầu tiên tôi ăn Tết xa nhà. Cuộc sống bước đầu của một sinh viên vừa ra trường với muôn vàn khó khăn đã khiến tôi rời xa quê hương để đi tìm một miền đất hứa.


Tôi chuyển vào Nam sống cùng cậu với ước mong tìm kiếm được một cơ hội tốt. Tôi bắt đầu với đủ thứ công việc, từ nhân viên bán quần áo trong các khu chợ đêm đến quảng cáo sản phẩm cho mọi nhãn hàng. Vất vả và nhiều áp lực đã khiến tôi bật khóc. Những đêm xa quê, nhìn lên bầu trời, tôi lại tự hỏi, ba mẹ tôi lúc này đang làm gì, có nhớ tôi như tôi lúc này hay không?


Tôi nhớ đến những lần tựa vai vào mẹ, mẹ vuốt tóc tôi thủ thỉ: “Mẹ chẳng mong gì hơn, chỉ mong cuộc sống của các con được yên ấm, con cái đã là của để dành rồi”. Giờ đây, tôi với mẹ tuy cùng nhìn lên một bầu trời mà cách xa cả ngàn cây số. Gương mặt mẹ đã bắt đầu hằn sâu những nếp nhăn. Nước mắt tôi trào ra nơi khóe mi. Tôi úp mặt vào gối, ngăn những tiếng nấc bật lên. Giữa những thổn thức xa quê hương, tôi tự nhủ mình phải sống cho thật mạnh mẽ.


Cha mẹ tôi có ba người con đều là con gái. Chị cả tôi hiện đã là giảng viên đại học, chị hai đã lấy chồng và làm công nhân tại một khu công nghiệp, chỉ còn tôi là người duy nhất chưa ổn định được cuộc sống cho riêng mình. Tết năm nay tôi không về. Mẹ đã gọi điện, bạn bè cũng thúc giục rất nhiều nhưng tôi vẫn nhất định ở lại bởi khoảng thời gian gần Tết mới là dịp tôi có cơ hội kiếm thêm thu nhập. Những công việc như: bán hoa, bán hàng Tết dù bận bịu đến tận những ngày cuối năm nhưng nó sẽ giúp tôi bươn chải được cuộc sống trong những ngày dài. Số tiền ít ỏi tôi tiết kiệm được trong mấy tháng vừa qua cũng chỉ đủ cho tôi mua một vé máy bay về nhà. Tôi không muốn cha mẹ và các chị mãi lo lắng cho tôi thêm nữa. Tôi còn trẻ, ăn Tết xa quê cũng sẽ là một trải nghiệm. Dù biết, đó sẽ là một trải nghiệm buồn.



Tôi tắt máy, không ngăn được những dòng nước mắt mình nóng hổi tuôn rơi (Ảnh minh họa)

Khi nhìn những tấm cửa kính trong quầy hàng đã dán đầy hoa mai, tôi lại ngẩn ngơ nhớ đến cánh đào miền Bắc. Hoa mai sắc vàng còn hoa đào sắc hồng, sắc đỏ. Hoa mai báo Tết miền Nam, hoa đào gọi Tết miền Bắc – gọi Tết của nơi tôi đã sinh ra và trưởng thành. Tầm này ở nhà, dọc con đường bờ hồ của quê tôi đã ngập tràn sắc hồng của hoa đào, hay những quả quất căng tròn, lúc lỉu. Những bó hương thơm chân đỏ, những bức tranh phong cảnh đầy màu sắc được bày bán dọc vỉa hè.


Tôi nghẹn ngào bấm số máy của mẹ tôi rồi áp chặt điện thoại vào tai, nghe thấy giọng mẹ cũng rưng rưng xúc động.
- Hay về nhà đi con, vào khu công nghiệp xã mình làm cho nó ổn định, mẹ thấy mày vất vả quá con ạ.
- Con còn trẻ mà mẹ. Mẹ cứ để cho con thử sức một thời gian.
Tôi ngậm ngùi. Tôi biết mẹ lo lắng cho tôi nhiều lắm, nhưng tôi không làm khác được, cuộc sống có nhiều khó khăn tất yếu phải trải qua.
- Ừ, mày ở đó nhớ giữ gìn sức khỏe nhé con, Tết này không có mày ở nhà, cả nhà sẽ buồn lắm.


Tôi tắt máy, không ngăn được những dòng nước mắt mình nóng hổi tuôn rơi. Tôi đoán chắc rằng ở phía đầu dây bên kia, mẹ cũng đang khóc. Nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ gia đình, bè bạn khiến tôi chỉ muốn ngay lúc này được quay trở lại bên cạnh họ. Khi đi xa, tôi mới hiểu thế nào là niềm yêu nỗi nhớ nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Mỗi cảnh vật mang nét quê hương thoáng qua nơi đất khách cũng khiến tôi nhớ nhà.


Cuộc sống đã đẩy đưa tôi đến một nơi xa xôi, nơi rất khó để có thể nhìn thấy nụ cười của mẹ, gương mặt của ba; một nơi không còn có thể tụ tập bạn bè dịp cuối năm quây quần bên đĩa hạt dưa, lai rai những câu chuyện phiếm. Hơi ấm của những ánh lửa bên nồi bánh chưng xanh, bữa cơm tất niên… tất cả ùa về. Tôi thấy lòng mình se sắt lại. Cảnh vật nhạt nhòa trước mắt tôi.

Giữa nơi đất khách quê người, tôi chỉ xin gió hãy mang chút hơi xuân miền Bắc đến gần lại bên tôi…


(internet)