Aug 22, 2012

Tiểu sử các Vua Việt [ P5- Vua Đồng Khánh ]


Ðồng Khánh (1885 - 1889)

Niên hiệu
Ðồng Khánh
Năm sanh, năm mất
1864-1889
Giai đoạn trị vì
1885-1889
Miếu hiệu
Cảnh Tông Thuần Hoàng Ðế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Biện, Nguyễn Phúc Chánh Mông


Thấy vua Hàm Nghi đã thoát ly triều đình kéo cờ khởi nghĩa chống Pháp, Thống tướng De Courcy sai ông De Champeaux lên yết kiến bà Từ Dũ là mẹ đẻ của Vua Tự Ðức để xin lập ông Chánh Mông lên làm Vua. Ngày 6 tháng 8 âm lịch năm Ất Dậu (1885), con nuôi thứ hai của Vua Tự Ðức, tên là Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ Pháp làm lễ thụ phong, được tôn làm Vua, lấy niên hiệu là Ðồng Khánh.Sách Trần Trọng Kim viết "Vua Ðồng Khánh tính tình hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được lòng người Pháp", nói một cách khác thì Vua Ðồng Khánh theo Pháp.
Lúc đó Vua Hàm Nghi vẩn còn ở mạn Quảng Bình, Pháp dồn quân đánh mạnh về vùng nầy, ông Tôn Thất Thuyết thấy thế yếu, không chống nổi quân Pháp nên bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé thuộc huyện Tuyên Hóa rồi nói rằng sang Tàu xin cầu cứu. Ông Tôn Thất Thuyết ở lại bên Tàu và chết già ở tỉnh Quảng Ðông (sách Trần Trọng Kim nói ông Thuyết lên Lai Châu nương tựa vào họ Ðiêu, đến lúc nghe tiếng Pháp lên đánh liền bỏ họ Liêu mà trốn sang Tàu).

Vua Ðồng Khánh đích thân ra tận Quảng Bình để dụ Vua Hàm Nghi và các quan tùy tùng về hàng, hứa là sẽ cho cai trị 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nhưng không thành công.
Ðến tháng giêng năm Mậu Tý (1888), Vua Hàm Nghi bị tên hầu cận Trương Quang Ngọc tham tiền nên cùng một số người tới tấn công trại Vua ban đêm trong lúc ngủ, giết quân tùy tùng trong đó có Tôn Thất Thiệp (con của Tôn Thất Thuyết), rồi đem Vua về nộp cho Pháp để lấy thưởng. Lúc nầy vua đã 18 tuổi, từ lúc bị bắt vua Hàm Nghi không nói năng gì cả chỉ nhất thiết chối rằng mình không phải là vua (có sách nói là quân Pháp rất bối rối vì không biết có phải là vua Hàm nghi không, các quan lại trong vùng có đến bái mạng nhưng vua coi như không biết, nhưng khi thầy học cũ của vua là Nguyễn Thuận tới thăm thì vua Hàm Nghi vái chào, từ đó viên quan Pháp Dabat mới chắc là vua Hàm Nghi). Pháp đày Vua Hàm Nghi sang sứ Algérie, ở đó Vua lập gia đình với một người Pháp, có 3 con, 2 gái 1 trai, và mất năm 1944. Hài cốt sau được chuyển về Pháp.

Ngày 27 tháng chạp năm Mậu Tý (28-1-1889) vua Ðồng Khánh thọ bệnh mà mất, ở ngôi được 3 năm, thọ 26 tuổi.
(sau nầy tên Trương Quang Ngọc bị ông Phan Ðình Phùng -đảng Văn Thân trong phong trào Cần Vương- sai quân vây bắt rồi đem ra chém đầu để trị tội bán Vua)
Nguồn: vietsciences
Ảnh: wikipedia

Tiểu sử các Vua Việt [ P4 Ðinh Tiên Hoàng ]

Đinh Tiên Hoàng (924-979)

Tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế





Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924, nguyên quán động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Cha là Đinh Công Trứ làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan.
Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với kẻ chăn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau.
Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách nên khi Bộ Lĩnh dựng cờ dấy nghĩa mong lập nghiệp lớn.
Vào độ tuổi trưởng thành, Đinh Bộ Lĩnh là người có khí phách phi thường lại có tài thao lược và nung nấu ước mong lập nên nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông.. Khi ông vua cuối cùng của vương triều Ngô mất (Ngô Xương Văn) năm 966, thừa lúc đất nước không có chủ, hào trưởng khắp nơi nổi dậy chiếm giữ các quận ấp, lập ra 12 sứ quân. Sử cũ gọi là loạn 12 sứ quân.

Đinh Bộ Lĩnh vốn là con quan đứng đầu một châu, có uy thế lại thu phục được nhân tâm bằng tài năng của mình và lại chiếm giữ được một vùng khe động hiểm trở nên đã đứng ra đảm trách gánh vác sơn hà.

Một trong số 12 sứ quân là Trần Lãm (xưng là Trần Minh Công) là một trong những sứ quân mạnh về kinh tế, lại chiếm giữ vùng đất quan trọng là Bố Hải khẩu (Kiến Xương, nay là vùng thị xã Thái Bình).
Là người có tài thao lược, Đinh Bộ Lĩnh đã dùng mọi kế sách trong nhiều trường hợp, tùy thực trạng mỗi sứ quân mà tìm cách đánh thích hợp, hoặc bằng quân sự, hoặc bằng liên kết, hay dùng mưu dụ hàng. Nhưng vì bất hòa với chú, Bộ Lĩnh cùng với con là Đinh Liễn sang ở với sứ quân Trần Minh Công ở Bồ Hải Khẩu. Thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô, có chí khí, Minh Công trao cho Bộ Lĩnh giữ binh quyền. Khi Trần Minh Công qua đời, Bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương.
Địa bàn hoạt động của Đinh Bộ Lĩnh được mở rộng, quân số, binh lương ngày càng lớn mạnh. Được sự ủng hộ của nhân dân, ông đánh đâu thắng đó, nên được gọi là vạn Thắng vương. Hai sứ quân Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Đường Lâm (nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) và Ngô Xương Xí chiếm Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa) là con cháu Ngô Vương. Đinh Bộ Lĩnh đã dùng mưu hàng phục được Ngô Nhật Khánh, hàng phục được cả Ngô Xương Xí.

Đinh Bộ Lĩnh đi tới đâu, đều được nhân dân góp sức ủng hộ tới đó. Với những sứ quân mạnh như Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, ông đã dùng cung kiếm tiến quân kết hợp với mưu lược. Đỗ Cảnh Thạc chiếm vùng Đỗ Đông Giang (Thanh Oai, Hà Tây) có cung thành chắc chắn và hào sâu bao quanh. Theo thần phả Độc nhĩ đại vương, Đỗ Cảnh Thạc là người trí dũng mưu lược, nên phải bàn mưu tính kế mà đánh. Ban đêm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân bao vây 4 mặt thành và tiến đánh bất ngờ. Đỗ Cảnh Thạc quân tướng không ứng cứu được nhau, bèn bỏ thành chạy. Hai bên giao tranh hơn một năm sau, Đỗ Cảnh Thạc bị thua. Nguyễn Siêu chiếm Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội). Đinh Bộ Lĩnh bày binh bố trận giao chiến. Nguyễn Siêu thua, phải ngầm qua sông xin cứu viện sứ quân khác. Đinh Bộ Lĩnh biết tin, bèn sai võ sĩ nửa đêm phóng lửa đốt doanh trại. Quân Nguyễn Siêu tan. Các sứ quân Kiều Công Hãn, Kiều Thuận, Nguyễn Thủ Tiệp, Phạm Bạch Hổ... đã thất bại ngay từ trận đánh đầu của Đinh Bộ Lĩnh. Đất nước thống nhất. Loạn 12 sứ quân đã dẹp xong.


Năm Mậu Thìn (968) Vạn Thắng vương lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc công, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân (Tổng chỉ huy quân đội) và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương.

Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ với nhà Tống năm Nhâm Thân (972), Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn mang đồ vật sang cống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ.

Từ đó nước ta giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Đinh Tiên Hoàng đã dẹp xong loạn sứ quân. Nhưng nhìn chung nhiều nơi vẫn chưa tuân theo luật lệ của triều đình. Bởi vậy để răn đe kẻ phản loạn, Đinh Tiên Hoàng đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo ở trong vườn, tuyên cáo rằng ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hoặc cho hổ báo ăn thịt. Dù chưa phải dùng hình phạt ấy nhưng mọi người sợ oai, phép nước được tuân thủ.

Việc binh-lính thì Tiên-hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân; 1 quân 10 lữ; 1 lữ 10 tốt; 1 tốt 10 ngũ; 1 ngũ 10 người.

Vậy một đạo là 100.000 người, và cứ số ấy mà tính thì nhà Đinh bấy giờ có 10 đạo, là 1.000.000 người.

Thiết tưởng nước ta bấy giờ đất thì nhỏ, người thì ít, lấy đâu làm một triệu quân được, và lấy cơm gạo đâu mà nuôi được bấy nhiêu người. Họa chăng Tiên-hoàng có được độ 10 vạn người đã là nhiều.

Nhưng rồi Đinh Tiên Hoàng phạm sai lầm bỏ trưởng lập ấu, cho con út là Hạng Lang làm Thái tử. Con trưởng là Nam Việt vương Đinh Liễn đã theo Tiên Hoàng đi trận mạc từ thuở hàn vi, không được kế vị, tức giận, sai người giết Hạng Lang đi. Hoạ loạn gây nên ngay trong hoàng tộc.

Năm Kỷ Mão (979) Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Đỗ Thích trước làm lại, đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm Vua bèn định bụng sát hại minh chủ. Một hôm Đỗ Thích thấy vua Đinh say rượu nằm trong cung bè lẻn vào sát hại rồi tìm giết nốt con cả là Đinh Liễn. Triều thần tìm bắt được Đỗ Thích đem xử tội và tôn Vệ vương Đinh Toàn lên làm vua.


Vì công lao của Đinh Bộ Lĩnh, nhà sử học Lê Văn Hưu viết trong * Đại Việt sử ký toàn thư: "Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết...

Đinh Bộ Lĩnh, ông Vua xứ hoa lau, người lớn lên trong thời bình, lập nghiệp trong dẹp loạn, đã xứng đáng là người giữ vị trí trụ cột trong việc củng cố quốc gia thống nhất, tập quyền trong thế kỷ thứ 10.

Đinh Bộ Lĩnh là người tạo tiền đề cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống năm 981 của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn.

Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi



Sơ đồ chiếm đóng 12 sứ quân




Lăng mộ vua Đinh ở cố đô Hoa Lư 




Tượng đài cờ lau Đinh Bộ Lĩnh ở thành phố Hồ Chí Minh 




Phong cảnh cố đô Hoa Lư 




Đồng tiền Thái Bình hưng bảo, tiền đầu tiên ở Việt Nam 
Nguồn: Vietsciences
Ảnh: 
wikipedia

Aug 21, 2012

Tiểu sử các Vua Việt [ P3 - Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng ]


Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (761-802)
Trích: FORUM

Vào nửa sau thế kỷ VIII, quyền thống trị của triều đình Trường An đã bắt đầu suy yếu. Chiến tranh giữa "phiên trấn" và "triều đình" - mà đỉnh cao là loạn An Sử - càng làm cho nhà Đường lụn bại. Uy quyền của bọn tiết độ sứ và đô hộ ngày một tăng, chúng tự ý trưng thu thuế má. Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định (miền Việt Bắc), năm 767 giúp kinh lược sứ An Nam Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và (Java) ở Chu Diên, sau đó y được cử làm đô hộ An Nam. Y ra sức bòn rút của cải của nhân dân ta, đánh thuế rất nặng. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác vào năm nào, nhân lòng căm phẫn của nhân dân, lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình nổi loạn, người hào trưởng đất Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Nội) là Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ.

Sử liệu gốc ghi lại về Phùng Hưng không nhiều. Chỉ biết, Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi cự tộc, hào trưởng đất Đường Lâm. Đường Lâm xưa kia vốn là vùng đồi gò và rừng cây rậm rạp, thú vật dữ tợn thường hay lui tới, nên nơi đây tục gọi là Đường Lâm hay Cam Lâm.

Phùng Hưng có tên tự là Công Phấn, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã từng vào trong cung nhà Đường Cao Tổ, đời Đường Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh - một người hiền tài đức độ.Khoảng năm Nhâm Tuất (722) đời Đường Khai Nguyên, ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Sau đó, ông trở về quê chăm chú công việc điền viên, trở nên giàu có, trong nhà nuôi nô tỳ có đến hàng nghìn người (theo bia Quảng Bá).

Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh một lần được ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo trâu, quật hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ 2 là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều mất.

Cho tới nay về ngày sinh và ngày mất của Phùng Hưng vẫn chưa rõ. Một nguồn dã sử cho biết Phùng Hưng sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý (760) (tức 5-1-761) và chết ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức 13-9-802), thọ 41 tuổi. Trong ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Ông được sử sách và truyền thuyết dân gian lưu truyền về tài đánh trâu, quật hổ ở đất Đường Lâm. Có lần ông đánh được 2 con trâu mộng đang húc nhau, dân làng ai cũng thán phục. Lần khác lại trừ được hổ dữ, bằng mưu kế, đem lại bình yên cho làng xóm mà cho tới giờ nhân dân Đường Lâm còn lưu truyền về câu chuyện đó.

Phùng Hưng còn là vị anh hùng đầu tiên trong những người con ưu tú của đất Đường Lâm. Và Phùng Hưng cũng là người anh hùng đầu tiên đã đánh chiếm lại thành Tống Bình (Hà Nội), trị sở của chính quyền đô hộ lúc đó và xây dựng nền tự chủ trong khoảng gần chục năm.

Thoạt kỳ thủy, anh em họ Phùng nổi dậy làm chủ Đường Lâm rồi nghĩa quân tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành căn cứ chống giặc. Phùng Hưng xưng là: Đô Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.

Năm Tân Mùi 791, mùa hạ, tháng 4, Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành. Quân của Cao Chính Bình (khoảng hơn 4 vạn bia Quảng Bá) đem ra chống cự. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt trong khoảng 7 ngày, quân địch chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất. Rất tiếc trong 7 năm ấy, sử sách không để lại một nguồn tài liệu nào về ông. Sau khi mất, con trai ông là Phùng An lên nối ngôi, dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương. An nối nghiệp được hai năm thì chính quyền lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ vừa mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên dưới 9 năm.

Sử liệu và truyền thuyết dân gian ở vùng Đường Lâm kể lại rằng: Phùng Hưng chết rồi rất hiển linh, thường hiện hình trong dân gian, giúp dân trong lúc hoạn nạn. Dân làng cho là linh ứng, lập miếu để thờ tự tại Đường Lâm. Tương truyền sau này, Phùng Hưng còn hiển linh giúp Ngô Quyền đánh thắng giặc ở sông Bạch Đằng. Thấy vậy, Ngô Quyền cho lập đền thờ quy mô to lớn hơn trước. Sự ngưỡng mộ đối với người anh hùng dân tộc họ Phùng còn thể hiện ở việc lập đền thờ phụng của nhân dân như ở đình Quảng Bá (Hà Nội), đình Triều Khúc (Hà Tây), thờ ở lăng Đại áng, Phương Trung, Hoạch An, phủ Thanh Oai (Hà Tây),v.v.

Hiện nay dấu vết lăng mộ của Phùng Hưng còn lại ở đầu phố Giảng Võ (gần bến xe Kim Mã), vì khi chết, ông được mai táng ở cạnh phủ Tống Bình, sau đó mới đưa thi hài về quê hương. Để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc, Nhà nước ta đã đặt tên phố Phùng Hưng tại phía cửa Đông của thủ đô Hà Nội.
@Vietsciences

Tiểu sử các Vua Việt [ P2- Vua Bảo Ðại ]

Bảo Ðại (1913 - 1997)

Niên hiệu
Bảo Đại
Năm sanh, năm mất
1913-1997
Giai đoạn trị vì
1925- 1945
Miếu hiệu
.
Tên Húy
Nguyễn Phúc Thiển, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy


Hoàng tử Vĩnh Thụy sanh ngày 23 tháng 9 năm Quí Sửu (23-10-1913), khi vua Khải Ðịnh mất thì Hoàng tử Vĩnh Thụy còn đang học ở bên Pháp (từ năm 1922). Toàn quyền Pháp Monguillot ra lệnh thành lập hội đồng phụ chính mới do ông Tôn Thất Hân đứng đầu và đại diện cho chánh phủ Việt Nam để ký với Pháp một hiệp định mới. Theo hiệp định nầy thì Khâm sứ sẽ là chủ tịch hội đồng nội các của Việt Nam, và kể từ dây Triều đình Huế sẽ không còn ngân sách riêng như trước nữa.
Ngày 14-11 năm Ất-Sửu, Hoàng Thái tử Vĩnh Thụy được tôn lên làm vua lấy niên hiệu là Bảo Ðại. Lên ngôi vua xong, Bảo Ðại giao công việc triều chánh cho hội đồng phụ chính rồi trở sang Pháp học cho đến năm 1932 mới trở về nước. Theo sách thì vua Bảo Ðại tính nắm lại quyền hành để cải tổ nước nhà nhưng gặp phải sự phản đối của các quan bảo thủ và bị chánh phủ Pháp cản trở, ông thất vọng vì thấy mình làm vua cũng như không nên đâm ra chán nản, lao mình vào các cuộc đi săn, chơi thể thao, ...
Tháng 3-1945, Nhật đánh úp Pháp và tuyên bố là muốn giúp Việt Nam dành độc lập. Ngày 11-3-1945 viện Cơ Mật của Triều đình Huế tuyên bố Việt Nam dành lại chủ quyền, bải bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Ngày 17-3-1945 vua Bảo Ðại giải tán hội đồng Cơ Mật (lập từ thời Minh Mạng) và giao cho ông Trần Trọng Kim thành lập nội các mới, theo nguyên tắc "Dân vi quý", trong thành phần Nội Các phần lớn là các nhà Tây học (như Hoàng Xuân Hãn,...), nhưng từ khi thành lập Nội Các, ông Trần Trọng Kim chẳng làm gì được cả vì quyền hành đều nằm trong tay Nhật hết !
Ngày 19-8-1945, Việt Minh chiếm chính quyền ở ngoài Bắc, biểu tình trước Nhà Hát Lớn Hà Nội để nghe tuyên bố của Mặt Trận Cứu Quốc Việt Minh. Cũng cùng ngày nầy trong Nam (theo Philippe Devilliers) đài phát thanh Việt Nam có truyền thanh một chiếu của vua Bảo Ðại gửi quốc dân, yêu cầu dân hy sinh để giữ độc lập và Vua sẵn sàng "làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.".
Ngày 24-8-1945, vua Bảo Ðại nhận được một bức điện văn của Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng từ Bắc đánh vào nội dung như sau : "Một chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã thành lập, chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh. Yêu cầu đức vua thoái vị ngay để củng cố và thống nhất nền độc lập nước nhà.". Sách chép là lúc đó ở Huế không ai biết Hồ Chí Minh là ai, sau khi điều tra biết được Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì vua Bảo Ðại mới thốt ra câu tiếng Pháp : "ça vaut bien le coup alors !" (như thế thì cũng đáng -thoái vị- !)
Ngày 25/8/1945, vua Bảo Ðại cho công bố chiếu thoái vị. Ngày 26/8/1945 nhà vua làm lễ ở Thế Miếu và ngày 30/8/1945 đại điện chính phủ cách mạng lâm thời gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận nhận ấn kiếm của nhà vua tại cửa Ngọ Môn (Huế).
Triều đại nhà Nguyễn chấm dứt sau 143 năm trị vì (1802-1945).
Sau đệ nhị thế chiến, Pháp trở lại Ðông Dương và tìm cách chiếm lại Việt Nam. Năm 1946, cựu hoàng Bảo Ðại lưu vong bên Hồng Kông. Năm 1948, Pháp thấy không xong nên tìm cách đưa cựu hoàng Bảo Ðại về lập chánh phủ để có "chánh nghĩa", cựu hoàng Bảo Ðại đòi Pháp phải xác nhập 3 kỳ (thống nhất) và cho Việt Nam độc lập, Pháp tỏ vẻ chịu nhượng bộ và ký với cựu hoàng Bảo Ðại hiệp ước Hạ-Long ngày 5-6-1948 (với ông Cao ủy Emile Bollaert), bầu cựu hoàng làm Quốc Trưởng nhưng trong hiệp định lại đòi điều khiển quân đội, tài chánh và ngoại giao! cựu hoàng Bảo Ðại không hài lòng nên bỏ sang Pháp (nhưng vẫn điều hành từ xa).
Tới năm 1954, sau hội nghị Genève chia đôi nước Việt Nam từ vĩ tuyến thứ 17, cựu hoàng Bảo Ðại mời ông Ngô Ðình Diệm làm Thủ Tướng ở Sàigòn, cuối năm 1955 các viên chức Hoa Kỳ ở Sàigòn giúp ông Ngô Ðình Diệm tổ chức một cuộc "trưng cầu dân ý" để lật đổ cựu hoàng Bảo Ðại và tôn ông Diệm lên làm Tổng Thống.
Cựu hoàng Bảo Ðại mất tại Paris tháng 7 năm 1997.
@vietsciences

Tiểu sử các Vua Việt [ P1 - An Dương Vương]

1/ An Dương Vương

Theo truyền thuyết sử cũ thì An Dương Vương tên thật là Thục Phán là cháu nước Thục. Nước Thục không phải là nước Thục ở vùng Tứ Xuyên đời chiến quốc (Trung Quốc) mà là một bộ tộc đã tới vùng Bắc Bộ từ lâu, sống xen kẽ với người Lạc Việt và người Thái. Tục gọi là người Âu Việt. Chuyện xưa kể rằng: Vua HùngVương có người con gái nhan sắc tuyệt vời tên gọi là Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. Vua Hùng Vương muốn gã nhưng Lạc Hầu can rằng: Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. Không lấy được Mỵ Nương, Thục Vương căm giận, di chúc cho con cháu đời sau thế nào cũng phải diệt nước Văn Lang của Vua Hùng. Đến đời cháu là Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Vua Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Vua Hùng Vương nói: ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, vua Hùng Vương còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, Vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất.
Năm Giáp Thìn (257 trước công nguyên), Thục Phán dẹp yên mọi bề, Xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu Âu Lạc (tên hai nước Âu Việt và Lạc Việt ghép lại) đóng đô ở Phong Châu ( Bạch Hạc, Vĩnh Phú).

AN DƯƠNG VƯƠNG DẸP TẦN

Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc thì Doanh Chính nước Tần đã kết thúc mọi hỗn chiến đời chiến quốc, thống nhất nước Trung Hoa, lập nên một nhà nước lớn mạnh. Để thõa tham vọng mở mang lãnh thổ, Doanh Chính huy động lực lượng to lớn phát động cuộc chiến tranh xâm lược Bách Việt.
Năm 218 trước công nguyên, Doanh Chính huy động 50 vạn quân chia làm 5 đạo đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất Việt, đạo quân thứ nhứt củ quân Tần phải đào con kênh nối sông Lương (vùng An Hưng Trung Quốc ngày nay) để chở lương thực. Nhờ vậy, đạo quân chủ lực của quân Tần do viên tướng lừng danh Đồ Thư thống lĩnh vào đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất rồi tiến vào Lạc Việt. Nhân dân Lạc Việt biết không thể đương nổi quân Tần nên bỏ vào rừng để bảo toàn lực lượng. Thục Phán được các Lạc tướng suy tôn làm lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Bởi vậy khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, chúng gặp khó khăn chồng chất. Quân địch tiến sâu đến đâu, người Việt làm vườn không nhà trống và trốn rừng đến đó. Chẳng mấy chốc quân Tần lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã mệt mỏi, chán nản và khổ sở vì thiếu lương, khí hậu độc địa, thì người Việt, do Thục Phán làm tướng, mới bắt đầu xuất trận. Chính chủ tướng Đồ Thư trong một trận giáp chiến đã bị bắn hạ. Mất chủ tướng, quân địch hoang mang mở đường máu tháo chạy về nước. Như vậy, sau gần 10 năm lãnh đạo nhân dân Âu Việt – Lạc Việt kháng chiến chống quân Tần thắng lợi. Thục Phán đã thực sự nắm trọn uy quyền tuyệt đổi về quân sự lẫn chính trị, khiến cho uy tín của Thục Vương ngày càng được cũng cố và nâng cao. Từ vị trí ấy, Thục Vương có điều kiện thi thố tài năng, dựng xây nước Âu Lạc vững mạnh.

AN DƯƠNG VƯƠNG XÂY THÀNH CỔ LOA

Sau chiến thắng vĩ đại đánh thắng 50 vạn quân Tần, Thục Vương quyết định xây thành Cổ Loa.
Tục truyền rằng Thục An Dương Vương xây thành nhiều lần nhưng đều đổ. Sau có thần Kim Quy hiện lên, bò quanh bò lại nhiều vòng dưới chân thành. Thục An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân Rùa vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa. Sự thực truyền thuyết đó như thế nào?
Thời ấy, tổ tiên ta chưa có gạch nung. Bởi vậy thành Cổ Loa được xây bằng đất ở chính địa phương. Thành có 9 vòng. Chu vi ngòai 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1.6km... Diện tích trung tâm lên tới 2km2 . Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5m, có chỗ 8-12m. Chân lũy rộng 20-30m, mặt lũy rộng 6-12m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Xem vậy công trình Cổ Loa thật đồ sộ, trong khi khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu. Chính vì vậy, việc xây dựng thành Cổ Loa cực kỳ khố khăn. Thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Nhưng điều đáng tự hào là cuối cùng thành đứng vững. Thục An Dương Vương đã biết dựa vào những kinh nghiệm thực tế để gia cố nền, móng khắc phục khó khăn. Vết chân rùa thần chính là bí mật tổ tiên khám phá, xử lý. Ngày nay, khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học thấy rõ chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính15cm, hòn lớn 60cm. Cần bao nhiêu đá để xử lý cho công trình? Kỹ thuật xếp đá? Đây quả là một kỳ công.

Thành Cổ Loa chẳng những là một công trình đồ sộ, cổ nhất của dân tộc mà còn là công trình hoàn bị về mặt quân sự. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dầy đặc, Tạo thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê - Hòang Giang thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả Cảm (Hà Bắc) thông với sông Hồng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Bởi vậy, ngay sau khi xây thành, Thục An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phướng đóng thuyền chiến. Với thuật đi sông vượt bể vốn là sở trường của người Lạc Việt, chẳng mấy chốc, các đầm phá quanh thành Cổ Loa biến thành quân cảng. Rồi nhân dân được điều tới khai phá rừng đa ( Gia Lâm), rừng Mơ (Mai Lâm), rừng dâu da (Du Lâm)v.v... thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện. Bên côn, kiếm, dáo, mác đủ loại, bàn tay sáng tạo của cha ông ta đã chế tạo ra mỏ liên châu, mỗi phát bắn hàng chục mũi tên. Cũng tại Cổ Loa, kỹ thuật đúc đồng cổ đã được vua Thục khuyến khích. Hàng chục vạn mũi tên đồng, những mũi tên lợi hại, có độ chính xác cao, kỹ thuật tinh vi, dùng nỏ liên châu đã được bàn tay thợ tài hoa sản xuất tại đây.
Với vị trí thuận lợi ấy, với cách bố trí thành có 9 lớp xoáy trôn ốc, 18 ụ gò cao nhô hẳn ra chân lũy để có thể từ cao bắn xuống, với vũ khí nỏ thần và những mũi tên đồng lợi hại, sức mạnh quân sự tổng hợp của Cổ Loa thời ấy thật đáng sợ.
Thành Cổ Loa là sự đúc kết tuyệt vời về trí tuệ của cha ông, là công trình sáng tạo kỳ vĩ của dân tộc.

AN DƯƠNG VƯƠNG BÃI CHỨC TƯỚNG QUÂN CAO LỖ

Chuyện xưa kể rằng:
Một lần Thục An Dương Vương hỏi tướng quân Cao Lỗ, người thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa:
Mấy năm nay nhà Triệu với Âu Lạc giao hảo thuận hòa. Nay con trai họ là Trọng Thủy muốn cầu hôn với Mỵ Châu, ông nghĩ thế nào? Riêng ta muốn chấp thuận lời cầu hôn cốt để hòa hiếu, tránh nạn binh đao?
Cao Lỗ suy nghĩ hồi lâu rồi tâu :
Việc này hệ trọng lắm, xin Vương thượng cho nghĩ ba ngày.
Về nhà, Cao Lỗ suy nghĩ băn khoăn lắm. ý vua An Dương Vương đã rõ, nếu không chấp thuận, có thể bĩ bãi chức. Nếu đồng tình thì vận nước có cơ nguy.
Mấy hôm sau, vào chầu vua, Cao Lỗ tâu :
Xưa nay chưa thấy kẻ bại trận lại xin cho con trai ở gửi rể. Chẳng qua họ muốn biết cách bố phòng của Loa Thành mà thôi. Việc ngàn lần không nên.
Thục An Dương bỗng nỗi giận :
Nhà Triệu đánh mãi Âu Lạc không thắng, muốn mượn chuyện cầu hôn để xí xóa hiềm khích, ta lẽ nào không thuận? Ông già rồi, ta cho ông về nghỉ.
Cao Lỗ không ngạc nhiên. Vốn điềm đạm, ông chỉ nói :
Việc đúng sai còn có vầng nguyệt soi sáng, thần không ân hận khi nói điều phải.
Vì không nghe lời khuyên của Cao Lỗ, An Dương Vương đã mắc mưu giặc khiến cho vận nước tan tành.
Lấy được nước Âu Lạc, nhà Triệu xác nhập vào quận Nam Hải với Âu Lạc thành nước Nam Việt.
Vốn là người quỷ quyệt, là rút được nhiều kinh nghiệm trong việc thống trị người Nam Việt, cho nên Triệu Đà đã áp dụng chính sách hiểm độc gọi là "Dĩ di công di", tức là chính sách dùng người Việt trị người Việt. Triệu Đà vẫn giữ nguyên quyền vị cho các lạc tướng, dùng họ đễ cai trị nhân dân Âu Lạc. Triệu Đà chỉ đặt một số ít quan lại và một số quân đồn thú để kiềm chế các lạc tướng và đốc thúc họ nộp phú công, mục tiêu chủ yếu của cuộc xâm lược lúc đó

@vietsciences

Ngày Quốc khánh ngẫm về bản tuyên ngôn lập quốc

Những ngày này, mỗi người Việt Nam chúng ta thường bồi hồi nhớ về chặng đường đã qua, và nghĩ tới tương lai của dân tộc, nghĩ đến những gì còn trăn trở, còn phải làm tốt hơn để tương lai Việt Nam đạt được những di nguyện của Bác Hồ, xây dựng một nước Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.

LTS
Quốc khánh năm nay như một dịp để chiêm nghiệm về những bước đi của Đất nước - Dân tộc trên con đường hiện thực hóa những tư tưởng và mục tiêu cao đẹp về một Việt Nam Dân chủ - Độc lập - Tự do - Hạnh phúc mà Bác Hồ đã long trọng tuyên bố trước muôn triệu người dân cũng như bạn bè thế giới sáu mươi lăm năm về trước. Tuần Việt Nam giới thiệu góc nhìn của GS. NGND Nguyễn Ngọc Lanh như một tư liệu tham khảo. Mời bạn đọc cùng tranh luận.
Không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Vậy mà nước ta đã làm điều này tới 3 lần. Đủ biết, nước ta luôn luôn bị nhòm ngó, và độc lập đối với chúng ta quả là tài sản "không gì quý bằng" - như Hồ Chí Minh đã khẳng định.
Sớm nhất trong số 75 bản tuyên ngôn độc lập trên thế giới là bản của Scotland, khi nước này thoát khỏi sự thống trị của Anh vào năm 1320 (Wikipedia). Thật ra, trước nữa còn có bài thơ Nam Quốc Sơn Hà - rất xứng đáng là một tuyên ngôn độc lập - xuất hiện hiện từ năm 1077, thậm chí năm 981 - khi nước ta chống cuộc xâm lược lần 1 của nhà Tống.
Không phải dân tộc nào sau khi đuổi được quân xâm lược cũng ra tuyên ngôn độc lập. Vậy mà nước ta đã làm điều này tới 3 lần. Đủ biết, nước ta luôn luôn bị nhòm ngó, và độc lập đối với chúng ta quả là tài sản "không gì quý bằng" - như Hồ Chí Minh đã khẳng định. Ngày nay, nếu chúng ta vẫn tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa của Nam Quốc Sơn Hà và Bình Ngô Đại Cáo (1427), thì việc khai thác Tuyên Ngôn Độc Lập (1945) lại càng phải như vậy, bởi vì nội dung và tinh thần của nó bắt kịp thời đại, dự báo tương lai, và do vậy có sứ mệnh dẫn đường.
Giá trị vĩnh hằng

Đó chính là con người phải được sống, được tự do, được hạnh phúc. Chúng nằm ngay trong một câu ở phần mở đầu của Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ.Hồ Chí Minh, dù chỉ ở Mỹ một năm (1912 - 1913) - so với ba chục năm bôn ba sau đó - và dù đã tiếp xúc biết bao chủ nghĩa đẹp đẽ cùng các giá trị tinh thần cao cả khác, nhưng vẫn nhận ra những giá trị vĩ đại nhất và vĩnh hằng nhất mà toàn nhân loại sẽ mãi mãi theo đuổi.
Về sinh học, con người tuân theo các quy luật của tự nhiên sẽ tiến hoá rất chậm. Về cấu trúc cơ thể, con người vẫn cứ là một động vật, điều khác biệt là ở bộ não, hai bàn tay và dáng đứng thẳng. Nhưng về xã hội học, con người sẽ tiến hoá nhanh, sẽ càng tách xa con vật nếu ngày càng có thêm tự do và hạnh phúc.
Quan niệm cũ trước đây là Tạo Hoá sinh ra muôn loài, trong đó con người là chúa tể. Ý này, nay có thể diễn tả khác đi cho phù hợp với trình độ khoa học hiện tại. Nhưng quan niệm mới, rất cách mạng, nảy ra từ cách đây trên hai thế kỷ, là mọi người được tạo ra như nhau (all men are created equal). Nếu vậy, mỗi người phải được đấng Tạo Hoá ban cho như nhau những QUYỀN tất yếu, không thể chuyển nhượng, để phân biệt với con vật. Trong thiên nhiên và khi đứng trước con người, không một con vật nào có những quyền đó.
Đã là quyền "tất yếu" thì không cần bàn cãi và không ai được phép làm người khác hiểu sai. Đã là quyền "không thể chuyển nhượng" thì không ai được phép lấy bất cứ tư cách gì để ban phát hay tước đoạt quyền vốn có của người khác.
Như vậy, bất cứ thế lực nào, từ đâu, nếu vi phạm các quyền đương nhiên nói trên đều bị coi là phi nghĩa, là thù địch.
Trên quan niệm này, các nhà lập quốc Hoa Kỳ đã lên án thực dân Anh và sau đó 169 năm Hồ Chí Minh đã lên án thực dân Pháp trong các bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước mình.
Tuyên ngôn độc lập Hoa KỳDịch sát nghĩaTuyên ngôn độc lập Việt Nam
We hold these truths to be self-evident,- that all men are created equal,
- that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights,
- that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness...
Chúng tôi coi là hiển nhiên những chân lý sau:- mọi con người được tạo ra như nhau;
- Tạo Hóa ban cho họ những Quyền tất yếu không thể chuyển nhượng;
- trong số đó có quyền Sống, Tự Do và quyền mưu cầu Hạnh Phúc...
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.Tạo hóa cho họ những Quyền không ai có thể xâm phạm được;
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do...


Hồ Chí Minh không trích cả câu, vì đoạn trích trong câu đã đủ ý cho lập luận rằng "mọi dân tộc đều sinh ra như nhau, do đó đều có các quyền sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc", để tiếp đó vị Chủ tịch chính phủ lâm thời thay mặt dân kết án kẻ xâm lược - như mọi bản tuyên ngôn độc lập vẫn làm.
Từ quan niệm trên, nghĩa vụ của một chính phủ là tôn trọng, bảo vệ các QUYỀN vốn có của mỗi công dân. Nếu một chính quyền tự đóng vai bề trên để ban phát các quyền này, hoặc vin cớ để hạn chế hay tước đoạt chúng, đều ít hay nhiều, là phi nghĩa. Cũng vậy, trong một xã hội văn minh, khi cá nhân hay tập thể bị coi là tội phạm thì nguyên nhân duy nhất là đã xâm phạm các quyền này của cá nhân hay tập thể khác.
Cần hiểu đúng suy nghĩ của vĩ nhân

Có "nhà" bình luận ở nước ta đã viết - và mỗi năm cứ thế dạy cho hàng triệu học sinh - rằng Hồ Chí Minh trích dẫn Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ là cách dùng chính những lời hay ý đẹp của... kẻ thù để lên án kẻ thù (!). Lịch sử trung thực cho biết, thời điểm 1945 và trước đó, Hồ Chí Minh muốn tranh thủ sự giúp đỡ và công nhận Hoa Kỳ, hơn là lên án Hoa Kỳ.

Sự kết hợp cờ Việt Nam - Mỹ (11/1945)


Nay thì rõ, hơn ai hết, chủ tịch Hồ Chí Minh thật sự khâm phục ý tưởng cao cả về các QUYỀN vĩnh cửu của con người nêu trong đoạn trích dẫn và muốn thực hiện cho dân mình các QUYỀN đó.
Đoạn tiếp của câu, Hồ Chí Minh đã thể hiện rất đầy đủ và cụ thể trong Hiến Pháp 1946. Đó là đoạn: "để đảm bảo cho những QUYỀN này, các Chính Phủ phải được thiết lập từ những con người mà thực quyền của họ là do sự nhất trí của người bị cai trị. Mỗi khi, bất kỳ một loại hình chính phủ nào nếu phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính phủ đó và lập nên một chính phủ mới...".

(Chân dung lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh, Chiang Kai-shek và Truman)

Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc

Độc Lập là điều kiện để thực hiện quyền Sống và quyền Tự Do; Tự Do là điều kiện để mỗi người tự mưu cầu Hạnh Phúc. Khi tiếp cận những chủ nghĩa rất đẹp đẽ về mặt lý thuyết, Hồ Chí Minh đã chọn và tiếp thu để áp dụng cho Việt Nam chủ nghĩa Tam Dân, thể hiện cô đọng bằng Dân tộc (phải độc lập), Dân quyền (phải tự do), Dân sinh (phải hạnh phúc). Nó phù hợp với Việt Nam, mặc dù nó chưa được coi trọng ở chính quê hương tác giả. May mắn, đây là sự lựa chọn chính xác; do vậy trước hết phải mưu đồ độc lập cho dân tộc.
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Việc công bố Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1945 nói lên đất nước đã có Độc Lập, người dân đã có chính quyền nội địa. Vậy thì, sau khi có độc lập, chính quyền phải làm gì cho dân? Hồ Chí Minh đã khẳng định ngay trong nội dung bản Tuyên Ngôn Độc Lập: Trước tiên phải thực hiện các QUYỀN của dân, trước hết là quyền tự do.
Lòng yêu nước phải được xây đắp trên cơ sở người dân được hưởng các quyền tự do, từ đó mọi người sẽ sẵn sàng và hào hứng thực hiện các việc cụ thể khác, kể cả sự nghiệp bảo vệ nền độc lập. Bản Tuyên ngôn kết thúc bằng một câu, trong đó Hồ Chí Minh phân biệt rõ độc lập với tự do. Và đây là thời điểm phải đặt tự do trên độc lập.
Hồ Chí Minh cảnh báo, Nước độc lập mà dân chưa tự do thì độc lập cũng không có ý nghĩa.
@tuanvietnam.net

Aug 20, 2012

Rùng mình những kiểu hành hình thời Trung Cổ


Đóng đính lên thập tự, tắm nước sôi, lột da… là những kiểu hành hình tàn khốc nhất lịch sử loài người.


1. “Tắm” nước sôi


Bạn hãy thử tưởng tượng xem ai có khả năng sống sót sau khi bị nhúng vào vại nước sôi sùng sục. Con số thoát khỏi bàn tay tử thần là rất hiếm hoi, bởi thế, hình thức hành hình này được xem là dã man nhất thời cổ đại và được thực hiện xuyên suốt quá trình lịch sử xa xưa của loài người. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những mẩu xương người trong những cái lò và nồi nấu ăn ở Trung Quốc cách đây khoảng 500.000 năm. Tại Anh, những năm 1500, hình thức này được xem là hợp pháp. Nạn nhân của nó sẽ được “nhúng” ngập trong vại nước, dầu hoặc hắc ín sôi sùng sục cho đến chết. Chỉ cần nghĩ đến vại dầu nóng kia thôi, chúng ta có thể “đồng cảm” với nỗi sợ hãi kinh hoàng của những tử tù khi phải trải qua khoảnh khắc tồi tệ cuối cùng của đời mình.

2. Đóng đinh lên thập tự


Đóng đinh lên thập tự là một trong những hình thức tra tấn khủng khiếp và dã man nhất thời cổ xưa, kéo dài suốt thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, chủ yếu diễn ra ở các đế chế Seleucid, Carthaginian, Ba Tư và La Mã cổ đại. Tù nhân bị kết án sẽ bị buộc hoặc đóng đinh lên cây thập tự và bỏ mặc để “gặm nhấm” nỗi đau cho đến chết. Chưa hết, xác họ sẽ không được đem chôn mà treo lên cao để bêu rếu và làm “bài học” xương máu cho những ai có manh mún phạm tội. Dã man hơn nữa, tù nhân còn bị lột sạch quần áo và phải đeo cây thập tự nặng khoảng 30 đến 60 kg đến nơi hành hình.

3. Lột da


Kiểu hành hình man rợ, khủng khiếp và tàn bạo thời Trung Cổ này được thực hiện nhiều nhất ở Trung Đông và châu Phi cách đây khoảng 1000 năm. Đối tượng phải chịu hình phạt này là các loại tội phạm, tù binh và những người bị cáo buộc sử dụng ma thuật. Sau khi được treo lên giá, quá trình “tước” da sống bắt đầu và cái kết thúc của án hình là nạn nhân sẽ phải chịu đau đớn cùng cực cho đến chết, bộ da của họ được “đính” lên tường như một lời cảnh báo cho những ai dám cả gan coi thường luật pháp. Hình phạt này là một niềm khiếp sợ đối với cả phạm nhân và những người chứng kiến.

4. Mổ bụng


Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng nghe hoặc chứng kiến loại án hình khủng khiếp này trong đời. Nhưng đó là câu chuyện của người “ngoài cuộc”, còn những người “trong cuộc”, không cần nói, chúng ta cũng có thể hình dung cảnh tượng đẫm máu đầy đớn đau khi “lục phủ ngũ tạng” bị móc ra từ từ, từng chút một mà những tội nhân như trộm cắp, ngoại tình phải hứng chịu. Bất ngờ thay, tại những quốc gia “văn minh” như Anh, Hà Lan, Bỉ và Nhật Bản, án hình này khá phổ biến. Nhật Bản nổi tiếng với kiểu tự mổ bụng của các chiến binh Samurai khi họ không làm tròn nhiệm vụ cao cả được giao. Bên cạnh đó, trong thời kỳ Trung Cổ, án hình này còn “sơ khai” và dã man hơn nhiều khi tù nhân trở thành “mồi” ngon cho bọn chuột đói tha hồ gặm nhấm vùng bụng.

5. Bánh xe tra tấn


Có nguồn gốc từ Hy Lạp thời Trung Cổ và kéo dài cho đến tận thế kỷ 19 ở các quốc gia Pháp, Nga, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Thụy Điển, bánh xe tra tấn hay còn gọi là Bánh xe Catherine là hình thức thi hành án được dùng để các phạm nhân trải nghiệm cái chết đau đớn một cách từ từ. Dụng cụ “giết người” này là một bánh xe lớn dùng để cột căng tứ chi phạm nhân, người thi hành án sẽ dùng búa lớn để đập vỡ xương tứ chi và khung xương sườn của phạm nhân cho đến khi trên bánh xe kia chỉ còn là một khối thịt trộn lẫn với các mảnh xương đã nát vụn. Sau đó, phần đầu của phạm nhân xấu số sẽ bị treo lên bêu rếu và làm bài học xương máu cho những ai không tuân theo pháp luật, còn khối thịt trộn xương kia sẽ được lũ chim “dọn dẹp” sạch sẽ.

6. Đóng cọc xiên người


Sẽ là bình thường nếu người ta khuyên tai, mũi, rốn, thậm chí là lưỡi để làm đẹp và trở nên có chút nổi trội với mọi người. Nhưng sẽ là khác thường và dã man nếu như cả một khối sắt dài xuyên dọc cơ thể cho đến khi cái chết tìm đến. Lạ một điều, án hình này lại cực kỳ được ưa chuộng ở Lã Mã, Trung Quốc, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ cùng một số quốc gia châu Âu và châu Á khác thời Trung Cổ. Thiết bị hình này là một cây sắt nhọn được dùng để đâm phạm nhân từ dưới đâm lên đến miệng, sau đó họ bị đưa vào một cái huyệt riêng rồi để mặc họ chờ cái chết đến sau vài giờ hay vài ngày trong tột cùng đau đớn.

7. Voi giày


Tồn tại khá phổ biến hàng mấy nghìn năm trong hệ thống thực thi pháp luật ở các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á, án hình voi giày là cách người ta huấn luyện những con voi biết giết người, áp dụng cho những tử tội chống lại triều đình hay những phe phái phiến loạn bằng cách để chúng dùng chân giẫm lên cơ thể phạm nhân hay dùng vòi cuốn nạn nhân lên cao và quật xuống đất. Ngoài ra, người ta còn dùng những phiến đá nặng đè lên ngực hay toàn thân phạm nhân khiến họ ngạt thở và chết từ từ sau đó.

8. Hỏa thiêu

Nếu tận mắt chứng kiến án hình khủng khiếp được thi hành này, nhiều người sẽ “tạnh” ngay ý định phạm tội bởi cái chết không đến ngay trong phút chốc mà lan dần, lan dần từ chân, đùi đến ngực và “ôm gọn” đầu người trong vòng vây cũi lửa ngun ngút bốc cao. Sau vài giờ, thịt và xương phạm nhân chỉ còn là tro bụi hòa cùng đám tro tàn trong đống cũi còn vương vấn đâu đây mùi thịt nướng thơm phức. Lịch sử từng chứng kiến nhiều tử tội nổi tiếng trải qua án hình man rợ này ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ như Nữ chiến binh người Pháp Joan of Arc (1412 – 1431), Giáo sĩ người Scotland Patrick Hamilton (1504 – 1528) hay Tổng gián mục thành Cantebury ở Anh Thomas Cranmer (1489 – 1556).
9. Treo lộn ngược
Phương pháp này được sử dụng để tra tấn và hành quyết tử tội bị kết án sử dụng ma thuật, giết người, ngoại tình, trộm cắp, thường được sử dụng thời Đế chế La Mã ở châu Âu và một số quốc gia khác ở châu Á. Tử tội sẽ bị treo ngược trên một cái giá nhằm làm chậm quá trình mất máu trong khi đao phủ tra tấn nhục hình như cắt từng bộ phận người từ háng trở lên hay xẻ dọc thân người một cách chầm chậm trong nỗi đau đớn tột độ của nạn nhân và niềm kinh hãi, khiếp đản của người chứng kiến. Theo sử sách, nhà tiên tri thành Judah Isaiah sống vào khoảng thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên đã bị hành quyết theo án hình này.

10. Lăng trì


Lăng trì, còn gọi là tùng xẻo là hình thức xử tử tàn độc, dã man và ghê rợn bậc nhất thời Trung Cổ, phổ biến tại Trung Quốc từ năm 900 đến năm 1905 mới được hủy bỏ. Trước sự chứng kiến của toàn dân chúng, phạm nhân bị kết án mưu phản, giết người, gian dâm sẽ bị trói vào cột, đao phủ nghe hiệu lệnh bằng tiếng trống rồi chặt tay, chân và sau đó dùng dao sắc xẻo từng miếng thịt nạn nhân cho đến chết. Quá trình thi hành án kéo dài từ 15 đến 20 phút tùy theo mức chịu đựng của từng phạm nhân. Những miếng thịt được treo khắp nơi công cộng nhằm mục đích răn đe dân chúng.

ConanẢnh: Environment


Xem chi tiết: http://www.phutvui.net/2012/08/rung-minh-nhung-kieu-hanh-hinh-thoi.html#ixzz2468j4eso