Aug 14, 2012

Lý giải bí ẩn cầu vồng 'sinh đôi'


Hai cơn mưa rào xảy ra cùng một lúc. Khi đó, các hạt mưa sẽ có kích cỡ khác nhau và tạo ra các cầu vồng hơi biến dạng. Những cầu vồng này kết hợp sẽ làm thành cầu vồng sinh đôi.
Trích: FORUM

Cầu vồng kép xuất hiện phía trên làng Kingwear, hạt Devon, Anh. Ảnh: Mirror.

Cầu vồng là hiện tượng tán sắc của ánh sáng mặt trời khi tương tác với những hạt nước trong không khí. Khi ánh sáng vừa bị phản xạ, vừa bị khúc xạ qua hạt nước, nó sẽ tách thành các màu theo thứ tự: Đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím.

Thường thấy nhất là cầu vồng đơn trong khi đó cầu vồng đôi gồm 2 cầu vồng đồng tâm riêng biệt và cầu vồng bậc 3, bậc 4 thì ít phổ biến hơn. Tuy nhiên, hiếm gặp nhất là cầu vồng "sinh đôi" - cầu vồng chung gốc nhưng lại tách thành 2 cung vòng riêng biệt.

Cầu vồng được nghiên cứu từ 2.000 năm trước, nhưng hiện tượng quang học đặc biệt này vẫn chưa được khám phá một cách đầy đủ.

"Mọi người đều từng nhìn thấy cầu vồng, trong đó có cầu vồng sinh đôi. Tuy nhiên cho đến tận bây giờ, không ai biết tại sao nó xuất hiện", tiến sĩ Wojciech Jarosz, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Disney, Zurich, Thụy Sỹ nói.

Tiến sĩ Jarosz và cộng sự đã nghiên cứu các phiên bản cầu vồng ảo trên máy tính vốn được sử dụng trong hoạt hình, trò chơi điện tử và xem xét hình dạng hạt nước cũng như những tương tác phức tạp của chúng với ánh sáng.

"Những mô phỏng trước đây cho rằng hạt nước có hình cầu. Nhờ vậy người ta có thể lý giải được hiện tượng cầu vồng đơn và cầu vồng đôi nhưng không thể giải mã được bí ẩn về cầu vồng sinh đôi", Jarosz nói. Thực ra, khi rơi, hạt nước sẽ bị ép lại do lực cản của không khí và mang hình dáng của chiếc bánh hambuger.

Theo Jarosz, bí ẩn của cầu vồng "sinh đôi" nằm ở sự kết hợp của các giọt nước với kích cỡ khác nhau. "Đôi khi, hai cơn mưa rào xảy ra cùng một lúc", Jarosz giải thích, "Khi đó, các hạt mưa sẽ có kích cỡ khác nhau và tạo ra các cầu vồng hơi biến dạng. Những cầu vồng này kết hợp sẽ làm thành cầu vồng sinh đôi".

Nhóm nghiên cứu đã phát triển phần mềm đồ họa này để tái tạo và mô phỏng lại những hiện tượng cầu vồng sinh đôi. Lần đầu tiên, kết quả mô phỏng trùng khớp với hình ảnh thực tế ghi lại từ máy ảnh.

Các nhà khoa học đã khám phá ra bí ẩn về cầu vồng "sinh đôi" rất tình cờ. Ban đầu, mục đích của họ là mô phỏng cầu vồng cho phim hoạt hình một cách tốt hơn họ nghĩ rằng hiện tượng này đã được hiểu một cách khá cặn kẽ từ trước.

Trong quá trình thực hiện, chúng tôi lại phát hiện ra rằng khoa học và các phương pháp mô phỏng hiện nay vẫn chưa thể giải thích được một số hiện tượng. Bí ẩn đó đã kéo chúng tôi vào cuộc", Jarosz cho biết.

Giờ đây, giới nghiên cứu hy vọng rằng, phương pháp mô phỏng của họ có thể được sử dụng rộng rãi hơn, không chỉ cho lĩnh vực đồ họa máy tính. Phát hiện trên nhen nhóm hy vọng một ngày nào đó, mô phỏng chính xác về các hiện tượng trong các lĩnh vực như khí tượng học có thể giải mã được những bí ẩn kỳ thú của tự nhiên.

VNE

Lý thuyết xác suất


Lí thuyết xác suất là ngành toán học chuyên nghiên cứu xác suất.
Các nhà toán học coi xác suất là các số trong khoảng [0,1], được gán tương ứng với một biến cố mà khả năng xảy ra hoặc không xảy ra là ngẫu nhiên. Kí hiệu xác suất P(E) được gán cho biến cố E theo tiên đề xác suất.
Xác suất mà biến cố E xảy ra khi biết việc xảy ra của biến cố F là một xác suất có điều kiện của E khi biết F; giá trị số của nó là P(E \cap F)/P(F) (với điều kiện là P(F) khác 0). Nếu xác suất có điều kiện của E khi biết F là bằng với xác suất ("không có điều kiện")của E, thì E và F được xem là các sự kiện độc lập. Vì quan hệ giữa E và F là đối xứng nên ta có thể nói rằng P(E \cap F) = P(E)P(F).
Hai khái niệm chủ đạo trong lí thuyết xác suất là biến ngẫu nhiên và phân bố xác suất của một biến ngẫu nhiên; xem thông tin cụ thể ở các bài tương ứng.

Một cái nhìn trừu tượng về xác suất

Các nhà toán học "thuần túy" thường xem lí thuyết xác suất là ngành nghiên cứu về các biến ngẫu nhiên và không gian xác suất — hướng này được đưa ra bởi Kolmogorov vào thập niên 1930. Một không gian xác suất là một bộ ba (\Omega, \mathcal F, P), trong đó:
  • Ω là tập không rỗng, đôi khi gọi là "không gian mẫu", trong đó mỗi thành viên của nó được coi là một kết quả có thể xảy ra của một thực nghiệm ngẫu nhiên. Ví dụ, nếu chọn ngẫu nhiên 100 cử tri trong số các cử tri tại California và hỏi họ sẽ bầu cho ai vào chức vụ thống đốc, thì tập tất cả các dãy gồm 100 cử tri California sẽ là không gian mẫu Ω.
  •  \mathcal F  là một σ-đại số của các tập con của Ω, các thành viên của nó được gọi là các "biến cố". Ví dụ, tập tất cả các chuỗi gồm 100 cử tri California trong đó ít nhất 60 người sẽ bầu cho Schwarzenegger được xem là "biến cố" rằng ít nhất 60 trong số 100 người được chọn sẽ bầu cho Schwarzenegger. Nói rằng \mathcal F là một σ-đại số có nghĩa rằng, theo định nghĩa, nó chứa Ω, rằng phần bù của một biến cố bất kì là một biến cố, và rằng hợp của một chuỗi (hữu hạn hay vô hạn đếm được) các biến cố bất kì là một biến cố.
  • P là một độ đo (cụ thể là độ đo xác suất) trên \mathcal F, sao cho P(Ω) = 1,.
Cần chú ý rằng P là hàm xác định trên \mathcal F chứ không phải trên Ω.
Với Ω đếm được, ta có thể định nghĩa \mathcal F là tập lũy thừa (powerset) của Ω, nghĩa là \mathcal F=\mathbb P (\Omega), đó là một σ-đại số và là đại số lớn nhất mà ta có thể tạo được bằng Ω. Do đó, trong một không gian rời rạc, ta có thể bỏ qua F và chỉ viết (Ω,P) khi định nghĩa nó.
Mặt khác, nếu Ω không đếm được và ta dùng \mathcal F=\mathbb P (\Omega), ta sẽ gặp rắc rối khi định nghĩa phép đo xác suất P vì F quá lớn, nghĩa là sẽ có các tập mà không thể gán cho nó một độ đo duy nhất, ví dụ Banach-Tarski Paradox. Do đó, ta phải dùng một σ-đại số \mathcal F nhỏ hơn (ví dụ. đại số Borel của Ω là σ-đại số nhỏ nhất có thể làm cho tất cả các tập mở trở nên đo được).
Một biến ngẫu nhiên X là một measurable function (hàm đo được) trên Ω. Ví dụ, số cử tri sẽ bầu cho Schwarzenegger trong mẫu 100 người là một biến ngẫu nhiên.
Nếu X là biến ngẫu nhiên bất kì, kí hiệu P(X \ge 60), viết tắt của P(\{ \omega \in \Omega \mid X(\omega) \ge 60 \}), là xác suất của "biến cố" X \ge 60.
Về các phương pháp đại số khác với cách tiếp cận của Kolmogorov, mời xem bài algebra of random variables.

Triết lí trong ứng dụng của xác suất

Một số nhà thống kê chỉ gán các xác suất cho các biến cố ngẫu nhiên, ví dụ, các biến ngẫu nhiên, mà cho kết quả thử nghiệm thực hay mang tính lí thuyết; đó là những nhà tần suất học (frequentist).
Một số khác lại gán xác suất với những mệnh đề không chắc chắn, tùy theo mức độ chủ quan (personal probability) tin vào sự đúng đắn của nó. Những người như vậy là các nhà Bayes. Một nhà Bayes có thể gán một xác suất cho một mệnh đề như 'đã từng có sự sống trên Sao Hỏa một tỉ năm trước,' vì điều đó là không chắc chắn, trong khi một nhà tần suất học sẽ không gán xác suất cho những phát biểu ngẫu nhiên như vậy. Một nhà tấn suất học có thể xem lời tuyên bố đó là không có ý nghĩa. Các nhà tần suất học chỉ gán xác suất cho kết quả của những thử nghiệm ngẫu nhiên được định nghĩa tốt, nghĩa là, khi có một không gian mẫu định sẵn. Trong kinh tế, xác suất đóng góp rất nhiều cho việc tính toán và đưa ra các giải pháp nghiên cứu thị trường,...

Không gian mẫu

Trong lý thuyết xác suất, không gian mẫu hay không gian mẫu toàn thể, thường được kí hiệu là S, Ω hay U (tức "universe"), của một thí nghiệm hay của một phép thử ngẫu nhiên là tập hợp của tất cả các kết quả có thể xảy ra. Ví dụ, trong thí nghiệm tung một đồng xu, không gian mẫu của thí nghiệm đó là tập hợp {ngửa, sấp}. Còn đối với thí nghiệm tung một con xúc xắc có sáu mặt thì, không gian mẫu là tập {1, 2, 3, 4, 5, 6}. Bất kì tập hợp con nào của không gian mẫu đều thường được gọi là một biến cố, khi tập con của không gian mẫu chỉ chứa một phần tử thì được gọi là biến cố cơ bản. Mỗi phần tử của không gian mẫu được gọi là một mẫu.
Đối với một số thí nghiệm, có thể có hai hoặc nhiều hơn không gian mẫu. Ví dụ, khi rút một quân bài từ một bộ bài thường, có 52 cây, một khả năng cho không gian mẫu có thể là hạng của quân bài (từ quân Xì tới quân Già), trong khi khả năng kia có thể là hoa của quân bài (chuồn, rô, cơ, bích). Một sự thể hiện hoàn chỉnh về kết quả, tuy nhiên, phải xác định được cả thứ hạng và hoa của lá bài, và một không gian mẫu mô tả cụ thể từng lá bài có thể được xây dựng bằng tích Descartes của hai không gian đã nêu trên.
Không gian mẫu có vẻ như là một cách tiếp cận xác suất rất tự nhiên (tức là ngay từ khi nghiên cứu xác suất người ta đã đưa ra khái niệm này rồi), nhưng nó là thành phần quan trọng trong không gian xác suất (một khái niệm của xác suất hiện đại). Một không gian xác suất (Ω, FP) kết hợp chặt chẽ giữa một không gian mẫu kết quả, Ω, định nghĩa cho một tập biến cố theo sở thích, σ-đại số F, mà theo đó, đơn vị đo xác suất P được định nghĩa.

Biến ngẫu nhiên

Biến ngẫu nhiên là một thuật ngữ được dùng trong toán học và thống kê. Trong một phép thử ngẫu nhiên (random experiment), đầu ra (outcome) của nó có thể là giá trị số hoặc không phải. Ví dụ phép thử ngẫu nhiên là tung một đồng xu lên và xét mặt nào của đồng xu ở phía trên, thì kết quả đầu ra có thể là {sấpngửa} (đầu ra không phải là số). Ví dụ phép thử ngẫu nhiên là tung con súc sắc và xem mặt nằm phía trên là có mấy chấm, thì kết quả đầu ra có thể là {1,2,3,4,5,6} (đầu ra là số). Tuy nhiên, trong các ứng dụng của thống kê, người ta muốn mỗi đầu ra đều gắn với một đại lượng đo đạc được, hay còn gọi là thuộc tính có giá trị là số. Để thực hiện điều này, người ta định ra biến ngẫu nhiên để ánh xạ mỗi đầu ra của một phép thử ngẫu nhiên với một giá trị số.
Biến ngẫu nhiên là một hàm toán học với đặc điểm: nó gán một giá trị bằng số cho kết quả (đầu ra) của một phép thử ngẫu nhiên (thực nghiệm).
X(\zeta)=x  \;
với ζ là đại diện cho đầu ra của một thực nghiệm, x là một số thực, X là hàm ánh xạ (hay là biến ngẫu nhiên). Vì thế, người ta còn gọi X là biến ngẫu nhiên giá trị thực (real-valued random variable).
Ví dụ: trong phép thử ngẫu nhiên tung đồng xu, ta định ra một biến ngẫu nhiên tương ứng
X(\zeta)=\left\{ \begin{array}{rl} 1 & \mbox{if} \, 'head' \\ 0 & \mbox{if} \, 'tail' \end{array} \right. \;
Ví dụ: trong phép thử ngẫu nhiên tung con xúc xắc, vì đầu ra vốn dĩ đã là số thực, nên ta có thể ánh xạ trực tiếp đầu ra bằng hàm đồng nhất thức
X(\zeta)= \zeta. \;
Phép thử ngẫu nhiên trong trường hợp tung con xúc xắc còn được gọi là phép thử ngẫu nhiên có giá trị bằng số (numerically valued random experiment).
Thuật ngữ biến trong biến ngẫu nhiên không có nghĩa nó là một biến như các biến toán học khác, mà thực chất nó là một hàm số (hay ánh xạ). Ta không thể gán giá trị cụ thể cho một biến ngẫu nhiên; một biến ngẫu nhiên không mô tả kết quả thực tế của một thực nghiệm cụ thể, nó dùng các số thực để mô tả các kết quả có thể có nhưng chưa xác định.
Thuật ngữ ngẫu nhiên trong biến ngẫu nhiên không có nghĩa nó là một hàm số ngẫu nhiên, mà nó là một hàm số được xác định. Tính ngẫu nhiên được thể hiện ở tham số đầu vào ζ. Điều này dẫn tới đầu ra của hàm (hay biến ngẫu nhiên) là ngẫu nhiên. Nói tóm lại, biến ngẫu nhiên có thể được xem là kết quả bằng số của việc vận hành một cơ chế không đơn định hoặc thực hiện một thực nghiệm không đơn định để tạo ra một kết quả ngẫu nhiên. Ví dụ, một biến ngẫu nhiên có thể mô tả các kết quả có thể của việc chọn ngẫu nhiên một người và đo chiều cao của người đó.
Tuy các ví dụ đơn giản như thả súc sắc và đo chiều cao (như miêu tả ở trên) giúp ta dễ dàng hình dung về ứng dụng thực tế của các biến ngẫu nhiên, cấu trúc toán học của chúng mang lại cho các nhà toán học sự thuận tiện khi làm việc với lý thuyết xác suất độ đo trong một môi trường quen thuộc hơn với các hàm số giá trị thực. Ngược lại, khái niệm này cũng đặt các thực nghiệm có liên quan đến các kết quả với giá trị là số thực vào trong khuôn khổ lý thuyết độ đo một cách vững chắc.

Biến cố (lí thuyết xác suất)

Trong lí thuyết xác suất, một biến cố (event) là một tập các kết quả đầu ra (outcomes) (hay còn gọi là một tập con của không gian mẫu) mà tương ứng với nó người ta sẽ gán kèm với một số thực (hay còn gọi là một xác suất). Thông thường, nếu không gian mẫu là hữu hạn, thì bất kì tập con nào của không gian mẫu cũng được xem là một biến cố. Tuy nhiên, điều này không đúng trong trường hợp không gian mẫu là vô hạn, đáng chú ý là khi đầu ra của một phép thử (experiment) là một số thực. Vì thế, khi định ra một không gian xác suất, nếu có thể, người ta thường tìm cách loại bỏ các tập con của không gian mẫu mà không được xem là biến cố.

Ví dụ

Nếu ta dùng một bộ bài gồm có 52 lá, và thực hiện việc rút ra một lá từ bộ bài, như vậy có tất cả 52 khả năng đầu ra hay ta nói không gian mẫu là tập hợp 52 phần tử. Một biến cố, là một tập con của không gian mẫu, kể cả tập cơ sở (chỉ chứa 1 phần tử) và cả không gian mẫu. Như vậy, ta có một vài biến cố:
Sơ đồ Venn của một biến cố. B là không gian mẫu và A là một biến cố.
Tính theo tỉ lệ diện tích, xác suất của A xấp xỉ bằng 0.4.
  • "Rút ra lá bài vừa đỏ vừa đen cùng một lúc" (0 phần tử),
  • "Lá bài rút ra là con 5 cơ" (1 phần tử),
  • "Lá bài rút ra là con Già" (4 phần tử),
  • "Lá bài rút ra là một lá bài" (52 phần tử).
Vì mọi biến cố đều là các tập hợp, chúng thường được biễu diễn dưới dạng liệt kê (ví dụ: {1, 2, 3}), và dùng sơ đồ Venn để minh họa.

Biến cố trong không gian xác suất

Việc liệt kê các tập con của không gian mẫu chỉ phù hợp khi số đầu ra là hữu hạn. Trong nhiều phân bố xác suất chuẩn, ví dụ phân bố chuẩn, thì không gian mẫu là tập con của tập các số thực. Nên việc qui định xác suất tương ứng cho mọi tập con của tập số thực là không khả thi. Vì thế, việc giới hạn sự tập trung vào một số biến cố nhất định là cần thiết.
Trong mô tả của lí thuyết ước lượng chung của không gian xác suất, một biến cố có thể được định nghĩa là một phần tử của một σ-đại số được chọn ra của các tập con của không gian mẫu. Dưới quan điệm này, tập con nào của không gian mẫu mà không phải là một phần tử của σ-đại số thì không được coi là một biến cố, và hiển nhiên là sẽ không có xác suất tương ứng.

Qui ước kí hiệu

Mặc dù các biến cố là các tập con của một không gian mẫu Ω, chúng thường được viết dưới dạng công thức mệnh đề (propositional formula) có chứa các biến ngẫu nhiên. Ví dụ, nếu X là một biến ngẫu nhiên giá trị thực được định nghĩa trên không gian mẫu Ω, thì biến cố
\{\omega | u < X(\omega) \leq v\}\,
có thể được viết đơn giản là,
u < X \leq v\,.
Cái này được dùng phổ biến trong các công thức xác suất, như
P(u < X \leq v) = F(v)-F(u)\,.

Giá trị kỳ vọng

Trong Lý thuyết xác suất, giá trị kỳ vọnggiá trị mong đợi (hoặc kỳ vọng toán học), hoặc trung bình (mean) của một biến ngẫu nhiên là trung bình có trọng số của tất cả các giá trị của thể của biến đó, hay là được tính bằng tổng các tích giữa xác suất xảy ra của mỗi giá trị có thể của biến với giá trị đó. Như vậy, nó biểu diễn giá trị trung bình mà người ta "mong đợi" thắng cược nếu đặt cược liên tục nhiều lần với khả năng thắng cược là như nhau. Lưu ý rằng bản thân giá trị đó có thể không được mong đợi theo nghĩa thông thường; nó có thể ít có khả năng xảy ra hoặc không thể xảy ra. Một trò chơi hoặc một tình huống trong đó giá trị kỳ vọng bằng 0 được gọi là một "trò chơi công bằng" (fair game).
Ví dụ, một vòng quay roulette có 38 kết quả có thể có khả năng như nhau. Mỗi đặt cược vào một số duy nhất thắng 35-1 ( nghĩa là ta được trả 35 lần số tiền đặt cược và được nhận lại tiền đặt cược, vậy ta nhận được 36 lần tiền cược). Do đó, xét cả 38 kết quả có thể, giá trị kỳ vọng của khoản lợi thu được từ 1 đôla đặt cược cho một số duy nhất là:
\left( -\$1 \times \frac{37}{38} \right) + \left( \$35 \times \frac{1}{38} \right),
nghĩa là khoảng -$0.0526. Do đó, giá trị kỳ vọng là ta sẽ mất trung bình hơn năm xu cho mỗi đôla tiền đặt cược.

Định nghĩa toán học

Thông thường, nếu X\, là một biến ngẫu nhiên xác định trên một không gian xác suất (\Omega, P)\,, thì giá trị kỳ vọng của X\,(ký hiệu \mathrm{E}(X)\, hoặc đôi khi \langle X \rangle hoặc \mathbb{E}(X)) được định nghĩa như sau
\mathrm{E}(X) = \int_\Omega X\, dP
trong đó sử dụng tích phân Lebesgue. Lưu ý rằng không phải mọi biến ngẫu nhiên đều có một giá trị kỳ vọng, do có thể không tồn tại tích phân (ví dụ phân bố Cauchy). Hai biến ngẫu nhiên có cùng phân bố xác suất sẽ có giá trị kỳ vọng bằng nhau.
Nếu X là một biến ngẫu nhiên rời rạc với các giá trị x1x2, ... và các xác suất tương ứng là p1p2, ... với tổng bằng 1, thìE(X) có thể được tính bằng tổng của chuỗi
\mathrm{E}(X) = \sum_i p_i x_i\,
cũng như trong ví dụ đánh bạc nêu trên.
Nếu phân bố xác suất của X chấp nhận một hàm mật độ xác suất f(x), thì giá trị kỳ vọng có thể được tính như sau
\mathrm{E}(X) = \int_{-\infty}^\infty x f(x)\, \mathrm d x.
Định nghĩa của trường hợp rời rạc trực tiếp suy ra rằng nếu X là một hằng biến ngẫu nhiên (constant random variable), nghĩa là X = b với một b là một số thực không đổi nào đó, thì giá trị kỳ vọng của X cũng bằng b.
Giá trị kỳ vọng của một hàm g(x) tùy ý của x, với hàm mật độ xác suất f(x) có công thức
\mathrm{E}(g(X)) = \int_{-\infty}^\infty g(x) f(x)\, \mathrm d x.

Các tính chất

Tuyến tính

Phép toán giá trị kỳ vọng (hay phép toán kỳ vọng) E là phép toán tuyến tính theo nghĩa sau
\mathrm{E}(a X + b Y) = a \mathrm{E}(X) + b \mathrm{E}(Y)\,
với hai biến ngẫu nhiên X và Y bất kỳ (được định nghĩa trên cùng một không gian xác suất) và hai số thực bất kỳ a và b.

Kỳ vọng lặp

Với hai biến ngẫu nhiên bất kỳ X,Y, ta có thể định nghĩa kỳ vọng có điều kiện (conditional expectation):
 \mathrm{E}[X|Y](y) = \mathrm{E}[X|Y=y] = \sum_x x \cdot \mathrm{P}(X=x|Y=y).
Khi đó giá trị kỳ vọng của X thỏa mãn
\begin{matrix}  \mathrm{E} \left( \mathrm{E}[X|Y] \right) & = & \sum_y \mathrm{E}[X|Y=y] \cdot \mathrm{P}(Y=y) \\                                           & = & \sum_y \left( \sum_x x \cdot \mathrm{P}(X=x|Y=y) \right) \cdot \mathrm{P}(Y=y) \\                                            & = & \sum_y \sum_x x \cdot \mathrm{P}(X=x|Y=y) \cdot \mathrm{P}(Y=y) \\                                           & = & \sum_y \sum_x x \cdot \mathrm{P}(Y=y|X=x) \cdot \mathrm{P}(X=x) \\                                           & = & \sum_x x \cdot \mathrm{P}(X=x) \cdot \left( \sum_y \mathrm{P}(Y=y|X=x) \right) \\                                           & = & \sum_x x \cdot \mathrm{P}(X=x) \\                                           & = &  \mathrm{E}[X]. \end{matrix}
Do đó, đẳng thức sau là đúng:
\mathrm{E}[X] = \mathrm{E} \left( \mathrm{E}[X|Y] \right).
Vế phải của đẳng thức được gọi là kỳ vọng lặp. Mệnh đề này được nói đến trong quy tắc kỳ vọng toàn thể (law of total expectation)

Bất đẳng thức

Nếu một biến ngẫu nhiên X luôn nhỏ hơn hay bằng một biến ngẫu nhiên Y khác, kỳ vọng của X cũng nhỏ hơn hay bằng kỳ vọng của Y:
Nếu  X \leq Y, thì  \mathrm{E}[X] \leq \mathrm{E}[Y].
Đặc biệt, do  X \leq |X|  và  -X \leq |X| , giá trị tuyệt đối của kỳ vọng của một biến ngẫu nhiên nhỏ hơn hay bằng kỳ vọng của giá trị tuyệt đối của nó:
|\mathrm{E}[X]| \leq \mathrm{E}[|X|]

Biểu diễn

Công thức sau đúng với mọi biến ngẫu nhiên giá trị thực không âm X (sao cho  \mathrm{E}[X] < \infty ), và số thực α lớn hơn 0:
 \mathrm{E}[X^\alpha] = \alpha \int_{0}^{\infty} t^{\alpha -1}\mathrm{P}(X>t) \mathrm d t.

 Không có tính nhân

Nói chung, phép toán giá trị kỳ vọng không có tính nhân, nghĩa là E(XY) không nhất thiết bằng E(X)E(Y), ngoại trừ nếu X vàY là độc lập hoặc không tương quan (uncorrelated). Sự không có tính nhân này dẫn đến nghiên cứu về hiệp phương sai (covariance) và sự tương quan (correlation).

Không bất biến về hàm

Nói chung, phép toán kỳ vọng và hàm của các biến ngẫu nhiên không có tính hoán vị; nghĩa là
\mathrm{E}(g(X)) = \int_{\Omega} g(X)\, \mathrm d P \neq g(\operatorname{E}X),
trừ trường hợp được ghi chú như ở trên.

 Ứng dụng của giá trị kỳ vọng

Các giá trị kỳ vọng của các lũy thừa của X được gọi là mômen (moment) của X; mômen quanh trung bình (moment about the mean) của X là các giá trị kỳ vọng của các lũy thừa của X − E(X). Mômen của một số biến ngẫu nhiên có thể được sử dụng để xác định phân bố của chúng, bằng các hàm sinh mômen (moment generating function) của chúng.
Để ước lượng bằng thực nghiệm giá trị kỳ vọng của một biến ngẫu nhiên, người ta liên tục thực hiện các quan sát về biến đó và tính trung bình cộng của các kết quả. Quy trình này ước lượng giá trị kỳ vọng thực sự bằng một cách không thiên lệch và có tính chất cực tiểu hóa tổng bình phương của các thặng dư (tổng bình phương của các hiệu giữa các quan sát và ước lượng). Luật số lớn chứng minh rằng (trong điều kiện ôn hòa) khi kích thước của mẫu thống kê lớn lên thì phương sai của ước lượng này sẽ nhỏ đi.
Trong Cơ học cổ điển, tâm khối (center of mass) là khái niệm tương đương với giá trị kỳ vọng. Ví dụ, giả sử X là một biến ngẫu nhiên rời rạc với các giá trị xi và các xác suất tương ứng pi. Xét một thanh ngang có trọng lượng không đáng kể, trên đó đặt các quả cân, tại các vị trí xi là các khối lượng pi (với tổng bằng 1). Điểm mà tại đó thanh ngang được thăng bằng (trọng tâm của nó) là E(X). (Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tâm khối không đồng nghĩa với trọng tâm (center of gravity).)

Kỳ vọng của ma trận

Nếu X là một ma trận m \times n, giá trị kỳ vọng của X là một ma trận của các giá trị kỳ vọng:
\mathrm{E}[X] = \mathrm{E} \begin{bmatrix}  x_{1,1} & x_{1,2} & \cdots & x_{1,n} \\  x_{2,1} & x_{2,2} & \cdots & x_{2,n} \\  \vdots \\  x_{m,1} & x_{m,2} & \cdots & x_{m,n} \end{bmatrix} = \begin{bmatrix}  \mathrm{E}(x_{1,1}) & \mathrm{E}(x_{1,2}) & \cdots & \mathrm{E}(x_{1,n}) \\  \mathrm{E}(x_{2,1}) & \mathrm{E}(x_{2,2}) & \cdots & \mathrm{E}(x_{2,n}) \\  \vdots \\  \mathrm{E}(x_{m,1}) & \mathrm{E}(x_{m,2}) & \cdots & \mathrm{E}(x_{m,n}) \end{bmatrix}
Tính chất này được dùng trong các ma trận hiệp phương sai (covariance matrix).

10 bài tập về biến cố và xác suất


10 BÀI TẬP BIẾN CỐ và XÁC SUẤT

1. Gieo đồng thời hai con xúc sắc. Tính xác suất để :
a) Tổng số nốt xuất hiện trên hai con là 7.
b) Tổng số nốt xuất hiện trên hai con là 8.
c) Số nốt xuất hiện trên hai con hơn kém nhau 2.

2. Gieo đồng thời ba con xúc sắc. Tính xác suất để :
a) Tổng số nốt xuất hiện của ba con là 8.
b) Tổng số nốt xuất hiện của ba con là 11.

3. Một khách sạn có 6 phòng đơn. Có 10 khách đến thuê phòng, trong đó có 6 nam và 4 nữ. Người quản lí chọn ngẫu nhiên 6 người. Tính xác suất để :
a) Cả 6 người đều là nam.
b) Có 4 nam và 2 nữ.
c) Có ít nhất hai nữ.

4. Một chiếc hộp đựng 6 quả cầu trắng, 4 quả cầu đỏ và 2 quả cầu đen. Chọn ngẫu nhiên 6 quả cầu. Tìm xác suất để chọn được 3 quả trắng, 2 quả đỏ và 1 quả đen.

5. Có 30 tấm thẻ đánh số từ 1 tới 30. Chọn ngẫu nhiên ra 10 tấm thẻ. Tính xác suất để :
a) Tất cả 10 tấm thẻ đều mang số chẵn.
b) Có đúng 5 số chia hết cho 3.
c) Có 5 tấm thẻ mang số lẻ, 5 tấm thẻ mang số chẵn trong đó chỉ có 1 số chia hết cho 10.

6. Một công ty cần tuyển 2 nhân viên. Có 6 người nạp đơn trong đó có 4 nữ và 2 nam. Khả năng được tuyển của mỗi người là như nhau.
a) Tính xác suất để cả hai nữ được chọn nếu biết rằng ít nhất một nữ đã được chọn.
b) Giả sử Hoa là một trong 4 nữ. Tính xác suất để Hoa được chọn. Tính xác suất để Hoa được chọn nếu biết rằng ít nhất một nữ đã được chọn.

7. Một hòm có 9 tấm thẻ đánh số từ 1 đến 9. Chọn ngẫu nhiên ra hai tấm thẻ. Tính xác suất để tích của hai số trên hai tấm thể là một số chẵn.

8. ở một nước có 50 tỉnh, mỗi tỉnh có hai đại biểu Quốc hội. Người ta chọn ra ngẫu nhiên 50 đại biểu trong số 100 đại biểu để thành lập một uỷ ban. Tính xác suất để :
a) Trong uỷ ban có ít nhất một đại biểu của thủ đô.
b) Mỗi tỉnh có đúng 1 đại biểu trong uỷ ban.

9. Tính xác suất để 12 người chọn ngẫu nhiên có ngày sinh rơi vào 12 tháng khác nhau.

10. Trong một tuần lễ vừa qua ở thành phố có 7 tai nạn giao thông. Tính xác suất để mỗi ngày có đúng một tai nạn.

Bàn về Hoài nghi và Lý trí

I. Tín : Điều căn bảnÐức tin vào lý trí



Như đã viết trong Lời nói đầu, cuốn sách này với những trình bày có giới hạn về các chủ đề triết học chỉ nhằm tìm cách khêu gợi tính hiếu kỳ của người đọc về một số chủ đề tạm gọi là cơ bản và có tính định hướng, thay vì cung cấp các câu trả lời đầy đủ và bảo đảm. Trước khi khép lại chương cuối, soạn giả xin được bày tỏ tín điều căn bản của mình, đó là đức tin vào lý trí con người.

Ðức tin rằng khi con người ứng xử với các vấn đề của mình bằng thái độ thành thật và công chính, và bằng thao tác của lý trí sao cho phù hợp với thực tế, nó sẽ càng ngày càng tìm thấy những giải đáp thỏa đáng cho các vấn đề của mình.
 

Vẫn còn giáo điều



Thật đáng buồn khi chứng kiến vào thiên niên kỷ thứ ba, ở thời đại mà suốt mấy trăm năm qua, khoa học đã và đang cho thấy những lợi thế có được từ việc loại trừ các lý thuyết từng có thời được nó xem là quí báu, dưới ánh sáng của các sự việc mới mẻ, thế mà vẫn có nhiều người trong các lãnh vực đạo đức, tôn giáo và chính trị chưa dứt bỏ được giáo điều chủ nghĩa và chưa khai quang những ách tắc đang nằm ngỗn ngang trên xa lộ tư tưởng vốn nhiều chiều. 

II. 
Hoài nghi 

Tinh thần hoài nghi

Tinh thần của khoa học là hoài nghi, và thế giới đang cần một tinh thần hoài nghi mới để đương đầu với những kẻ không những ôm ấp các ý tưởng cực đoan và giáo điều mà còn sử dụng chúng nhằm ngăn chận sự hiệp thông của con người và đà tiến của loài người.

Bằng từ ngữ “hoài nghi” chúng tôi không có ý nói tới chủ trương yếm thế mang tính *khuyển nho (cynicism) hoặc chủ nghĩa *đả phá thần tượng (iconoclasm).

Chúng tôi cũng không có ý nói tới người gọi là cấp tiến, những kẻ đang nhếch mép cười khinh dễ và cảm thấy thỏa mãn cơn thôi thúc bệnh hoạn bằng cách gieo rắc lòng ngờ vực vào những tâm hồn nhạy cảm và trí óc dễ bị ảnh hưởng.
 Chúng tôi lại càng không có ý nói tới *chủ nghĩa hoài nghi (scepticism) vốn đánh giá cuộc truy tầm chân lý là một trò chơi điên rồ. Người ta có thể đạt tới một chủ nghĩa hoài nghi như thế mà không cần phải gắng sức, đồng thời có thể bảo vệ nó mà chẳng cần chút kỹ năng nào vì luận cứ mạnh mẽ nhất của nó là tiếng cười khẩy nhạo báng và nền tảng chủ yếu của nó là ngu dốt. 

Hoài nghi và vô minh


Bằng từ ngữ “hoài nghi”, chúng tôi có ý nói tới sự nhận biết rằng chúng ta có thể sai và rằng cái chúng ta đang gọi là chân lý rốt cuộc có lẽ chẳng hơn gì các chân lý không thể sai lầm của một thời quá khứ mà vì chúng nhiều người săn đuổi nhau và bị săn đuổi, muốn giết người và bị người giết. Dọc theo quá trình tiến bộ của tư tưởng loài người, các chân lý đó đã bị vứt bỏ không chút xót thương.

Thái độ hoài nghi chân chính là kẻ thù của vô minh. Nó là sự đòi hỏi càng ngày càng phải có thêm những thông tin đáng tin cậy. Người hoài nghi khao khát các sự kiện; y sẽ vứt bỏ bất cứ lý thuyết nào hoặc hệ tư tưởng nào không thể phù hợp với các sự kiện. Không có các cứu cánh tối hậu trong cuộc sinh tồn hữu hạn, cũng không có niềm hy vọng vào một kết thúc tối hậu cho cuộc chúng ta truy lùng chân lý.


Chân lý với những tươi mới và rộn ràng của nó luôn luôn nằm trong cuộc tìm kiếm chứ không nằm trong sự sở hữu. Cách thức duy nhất để kiểm tra cuộc truy tầm phải là tính chất thỏa đáng và hợp lý trong hệ thống của chúng ta nhằm diễn đạt lương thiện hết sức có thể được những gì chúng ta đã, đang và sẽ khám phá.

Hoài nghi và giáo điều


Hoài nghi là kẻ thù của giáo điều. Giáo điều chủ nghĩa là một lý thuyết tự cho, hoặc ngấm ngầm hoặc trắng trợn, rằng không thể sai lầm. Có những chủ nghĩa giáo điều khác nhau và những thẩm quyền thế giá khác nhau của giáo điều chủ nghĩa, nhưng tựu trung tinh thần của chúng vẫn chỉ là một. Chúng không dám mạnh dạn phô ra những nguyên lý cơ bản của chúng trước bất cứ cuộc thẩm tra rốt ráo nào, và chúng co mình lại trước những đánh giá thẳng thắn và chân thành các kết luận của chúng. Tận dụng thực tế tâm lý của người bình thường chỉ muốn yên chí và ổn định, chủ nghĩa giáo điều khai thác lợi thế ấy để áp đặt lên họ sự nhẹ dạ dễ tin. Trong khi sở đắc lòng trung thành của người khác, chủ nghĩa giáo điều tìm cách ngăn trở tâm trí họ. Do đó, xã hội gần như dậm chân tại chỗ trước sự tiến bộ văn hóa, và lụi tàn dần niềm hứng khởi có được từ những suy tưởng riêng tư cùng quyết định riêng tư về các chủ đề căn bản của cuộc sống. Hoài nghi và mê tín

Hoài nghi là kẻ thù của mê tín. Mê tín là sự kết hợp rất bất hạnh của giáo điều chủ nghĩa và vô minh. Nó được củng cố bằng lập luận rằng loài người không thể hành động mà không có đức tin. Và luận cứ đó được sử dụng với hàm ý rằng nếu chúng ta dừng lại để khảo sát niềm tin của mình thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể hành động.

Lập luận ấy chỉ đúng ở điểm quả thật trong con người luôn luôn có chỗ cho đức tin và chúng ta không thể hành động mà không có một số giả định dùng làm nền tảng cho các hành động của mình. Tinh thần hoài nghi thấy không cần phải bàn cãi về điểm đó. Cái mà nó muốn phản bác là sự quả quyết, nhân danh hành động, rằng nhất thiết phải chấp nhận những tiền đề mà không cần phải khảo sát.


Những cơ sở của hành động của chúng ta luôn luôn phải là đối tượng của thẩm tra, vì bản tính của hành động sẽ phản ánh bản tính của cơ sở chúng. Người ta ít cổ vũ các hành động đặt cơ cở trên những giả định giả tạo, vì các hành động ấy cũng sẽ mê lầm không kém những tiền đề của chúng.
 

Hoài nghi và khoa học


Hoài nghi là tinh thần của phương pháp khoa học. Khoa học tuyên xưng niềm xác tín vào khả năng sai lầm của nó, và xem đó như một nguyên tắc căn bản. Ðền thờ các ngôn sứ của khoa học dành cho những ai không xem là chân lý tối hậu cái không được thẩm tra và những ai thẩm tra mà không có định kiến về cái sẽ là kết quả.

Nhà khoa học chân chính quan tâm tới việc kiểm tra các giả định của mình, tìm kiếm những thí dụ phủ định để tự bác bỏ lý thuyết của mình, và hoan nghênh các ý kiến phê phán của các nhà khoa học đồng nghiệp. Trong khoa học không có sự chắc chắn tuyệt đối, không có những nguyên tắc tất yếu phải duy trì, chống lại các sự kiện hoặc chống lại thực tế. Nhà khoa học quan tâm tới sự tăng tiến của tri thức hơn là tới việc tuyên bố các chân lý không thể sai lầm.
 

Hoài nghi và triết học


Hoài nghi là thái độ đặc trưng của triết học trong điều kiện tốt nhất. Triết học là mạo hiểm, là cuộc truy tầm chân lý dưới sự hướng dẫn của lý trí. Ngay cả những kẻ phủ định giá trị của lý trí như một công cụ của tri thức cũng phải đặt căn bản các kết luận của họ trên những lập luận hợp lý. Vì vũ trụ quá đổi bao la mà tâm hồn con người lại rất hữu hạn cho nên triết học chỉ còn biết kỳ vọng vào tính khả thi trong các kết luận của nó, và tính khả thi ấy chỉ có thể là sản phẩm của tư duy.

Triết học tiến hành bằng thao tác có tính phê phán theo với những suy tưởng của nó trong đức tin rằng chân lý, cái có thể sở đắc, sẽ là phần thưởng cho nỗ lực hợp tác, và rằng con người sẽ ngày càng cao quí và danh giá hơn nhờ tự do và thẩm tra có tính phê phán. Ðối với những ai có thể phản bác rằng con người không thể nào đạt tới các cùng đích ấy, triết gia hẳn chỉ có một câu trả lời rằng chẳng còn cách nào khác.

Nếu đây là con đường thất bại thế thì loài người bị bắt phải thất bại. Lịch sử của loài người đã và đang khẳng định ý kiến rằng cho dẫu có thất bại cũng vẫn tốt hơn những cái gọi là thành công của chủ nghĩa giáo điều và mê tín, vì nó đã được triển khai với một tâm trạng bao dung độ lượng và một sự hiểu biết sâu xa đầy êm ái.

III. 
Tinh thần triết học

Tra vấn tra vấn và tra vấn


Dù phải tiếp tục phê bình các giả định của khoa học, các triết gia hiện đại tự xếp mình chung một hàng ngũ với khoa học gia, không chỉ vì chất liệu họ sử dụng mà còn vì tinh thần cần phải tra vấn liên tục. Hẳn vô ích nếu làm một cuộc dạo chơi trong lịch sử để tìm cho ra giữa khoa học gia và triết gia ai đã dạy cho ai tinh thần tra vấn chân chính.

Có nhiều chứng cớ cho thấy tinh thần tra vấn chân chính là di sản của một quá trình lịch sử triết học lâu dài. Vì ngày nay, nhà khoa học gần gũi với lòng ái mộ của quần chúng và công trình của họ đem lại kết quả trước mắt nên hầu hết các nhà triết học sẵn lòng từ bỏ cuộc tranh luận xem ai là kẻ khởi xướng, và xếp mình chung hàng ngũ với những ai cho thấy giá trị dồi dào của khoa học.
 

Không bảo thủ và thành kiến


Trong các cuộc thẩm tra, triết gia phải giữ thái độ không thành kiến hết sức có thể được. Y hẳn không bắt đầu với những kết luận phải được duy trì bằng mọi giá, ngay cả việc chống lại chứng cớ; y sẵn sàng sửa đổi lý thuyết của mình khi thực tế đòi hỏi. Chúng ta phải chỉ có vỏn vẹn một sở thích, đó là tình yêu chân lý.

Triết gia bảo lưu quyền thách đố ý nghĩa của các sự kiện hoặc các hàm ý của chúng trong những lãnh vực khác nhưng tự thân các sự kiện thì ở quá bên kia tầm phán đoán của y. Chúng ta phải nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại rằng triết học không phải là một giáo điều (dogma) hoặc một chuỗi các giáo điều cần phải duy trì để chống lại những kẻ bất trung, mà là nỗ lực chân thành nhằm thông giải mọi thông tin có sẵn thành một hình ảnh nhất quán và toàn diện của vũ trụ.
Tìm câu trả lời chính xác


Tìm cho ra câu trả lời là điều quan trọng và quan trọng nhất là có câu trả lời chính xác. Cái đó, không còn cần phải bàn. Vì thế, nếu muốn đối mặt một cách trí tuệ với cuộc đời, chúng ta phải thắc mắc xem các câu trả lời của mình có thật sự chính xác không. Một khi tự đặt cho mình câu hỏi ấy, ta thấy không dễ có câu trả lời bảo đảm.

Ngang đây, chúng ta có thể thấy việc đọc sách, giống như du lịch, mở rộng các sở thích và quan tâm của mình, đồng thời gợi ra những nghi ngờ về tính chất không bao giờ sai lầm của các ý kiến của chính mình. Ðối với những kẻ ôm chặt niềm tin của họ, cách duy nhất là họ từ chối xem xét ý kiến của những người khác.

Trong cuốn Apperance and Reality (Vẻ ngoài và thực tại, 1893), F.H. Bradley, một trong những triết gia được kính trọng nhất của nước Anh, đã viết rằng: “Thế hệ hiện nay biết rằng để sở hữu giáo dục, con người phải học nhiều hơn một ngôi trường”. Cuốn sách này sẽ đạt được mục đích của nó nếu nó có thể giúp cho bạn đi tới kết luận rằng có đối với các vấn đề căn bản của cuộc đời, ta có nhiều hơn một câu trả lời để con người tùy nghi suy tưởng và chọn lựa.
 

Nhất quán và toàn diện


Khi bắt đầu nghiên cứu các hệ thống khác nhau, rất có khả năng chúng ta sẽ bị ấn tượng bởi cung cách trang trọng của các tác giả khi trình bày quan điểm của họ cùng sự chắc nịch trong các lập lụận được họ đưa ra để hậu thuẫn cho quan điểm của mình. Họ làm cho người đọc tin vào chân lý của các kết luận của họ, không kém chúng ta làm đối với của chúng ta.

Các hệ thống có những kết luận mâu thuẫn nhau thì hoàn toàn không có khả năng đúng. Chúng ta phải tự mình quyết định cho mình. Nếu trang trọng theo đuổi chân lý, chúng ta phải thắc mắc rằng trong những cái đó, cái nào đúng. Chúng ta phải đi tới kết luận rằng nếu có hệ thống nào khác đúng thì cái của mình là sai, và chúng ta buộc lòng phải duyệt xét lập trường của mình.


Viễn cảnh ấy thường khiến cho người ta cảnh giác sâu xa cho tới khi hoàn tất việc duyệt xét. Lúc đó, họ sẽ cảm thấy đầy tràn niềm mãn nguyện trí thức với lập trường mới mẻ của mình. Tại phương Tây có một câu cách ngôn độc đáo, mà ngày nay cũng có thể áp dụng cho cả phương Ðông, rằng: “Kẻ cải giáo là người ngoan đạo nhất”.
 

Có duyệt xét mới tiến bộ


Với tác động của tinh thần hoài nghi, việc duyệt xét các niềm tin không hề là việc không tốt. Dù nền văn minh hiện đại có nhiều điều đáng phàn nàn nhưng ta phải thừa nhận rằng nó biểu hiện một nền văn hóa cao hơn thời con người nguyên thủy. Trình độ phát triển này không xuất hiện do bởi ngẫu nhiên. Các cơ sở của khoa học, tôn giáo và đạo đức thủ cựu phải bị phân hủy bởi dung dịch cường toan của tinh thần hoài nghi để mở đường cho các khái niệm thỏa đáng hơn.
Hầu hết chúng ta đều đồng ý rằng các bộ luật thời hiện đại nhân đạo hơn luật *Mô-sê với “mắt đền mắt, răng đền răng” hoặc các bộ luật của các triều đại phong kiến trước đây, trong đó có luật nước Anh đòi lên án tử hình các thiếu nhi phạm pháp. Ðể có những biến đổi như thế, con người phải tranh đấu và thông thường phải mua chúng bằng giá máu của mình. Hầu hết chúng ta cũng đồng ý rằng Kitô giáo cống hiến một khái niệm về Thượng đế làm mãn nguyện lòng người hơn so với các tôn giáo tiền-Kitô tuy nhiều người phải đem cái chết của mình ra để thách đố các hệ thống thủ cựu hơn.

IV. 
Lý trí

Vấn đề chứng cớ

Ðể có khả năng thể hiện tinh thần hoài nghi và tiếp tục sống với nó không phải là chuyện dễ dàng. Nhưng phát xuất từ sự nghi ngờ, con người đã đạt được những câu trả lời vừa lòng hơn. Ðối với triết gia, không niềm tin nào thiêng liêng trừ niềm tin vào chân lý. Và để trả lời các câu hỏi do chính chúng ta đặt ra, không đáp án nào tất yếu phải đúng vì có ai đó đã đưa ra như thế. Tất cả là vấn đề chứng cớ.

Như Giáo sư Georg Misch của Ðại học Harvard viết trong cuốn The Dawn of Philosophy (Bình minh của triết học, 1951) rằng: “Ở nơi [triết học] thao tác, không câu trả lời nào được lập sẵn, và không lời quả quyết có tính truyền thống nào có thể làm yên ắng những chất vấn của con người một khi y đã thức giấc cùng với những đòi hỏi phải có bảo đảm của y – quả thật, nếu để ý tới tính giáo điều chủ nghĩa của những câu trả lời hoặc những lời tuyên bố, y sẽ thấy rằng không câu trả lời nào do người ta cung cấp có thể biện minh cho chúng bằng ý nghĩa cố hữu của chúng và có thể tự đứng vững trước lý trí. Như thế, triết học nâng tinh thần con người lên phạm trù tự do, trong đó chỉ có định luật về tư duy hợp lý mới có khả năng chấm dứt được hành động chất vấn, và sẵn lòng để cho mình bị ràng buộc bởi những gì được xem là bằng cớ”.

Thẩm quyền tối hậu


Triết gia phải giả định rằng bậc thẩm quyền tối hậu và duy nhất cho ý kiến đã được chấp nhận là lý trí của y. Bạn không thể làm một triết gia mà không sử dụng lý trí. Triết học không đặt ra cho con người bổn phận phải đi tới các kết luận chắc chắn; nó chỉ đòi hỏi hữu thể có lý trí ấy phải chứng tỏ lý tính của nó bằng việc suy ngẫm các ý kiến của nó và chỉ chấp nhận kết luận nào có thể đưa đẩy nó vào một cuộc tra vấn chân thành và hợp lý.

Trong thái độ đó, triết gia có thể sai. Có thể xảy ra việc chân lý tối hậu về vạn vật được sở đắc bằng trực giác hoặc bằng thái độ qui thuận một thẩm quyền không sai lầm nào đó, hoặc một đức tin không thắc mắc về những lời công bố theo cảm quan chung, nhưng hễ có người nào muốn chứng minh chân lý ấy thì cũng cần phải đáp ứng và tiến hành công tác đó bằng những luận cứ hợp lý. Do đó, triết gia cảm thấy mình hữu lý trong việc sử dụng công cụ của lý trí, suy ngẫm về các sự kiện, và xem chúng là nguồn thẩm quyền tối hậu trong một thế giới còn rất lâu mới toàn hảo.
 

Tra vấn hết thảy


Triết gia phải cảm thấy không có bất cứ cái gì ở bên ngoài phạm vi tra vấn của mình, hoặc không có cái nào bất khả xâm phạm vì lý do tôn giáo hoặc vì lý do nào khác, được dùng để chống lại những phê phán của mình một khi phê phán ấy dường như có cơ sở. Nếu chúng ta muốn đối xử trang trọng với những suy ngẫm có lý tính, chúng ta phải quyết tâm tiến hành chúng một cách rốt ráo, từ đầu tới cuối.
Không thể nào tìm ra nguyên tắc để kết hợp hết thảy các sự kiện kinh nghiệm nếu con người, một sinh vật có lý trí, không được công nhận là một hữu thể tri giác có quyền thắc mắc về vị trí của các sự kiện trong một hệ thống tối hậu. Vì lý do đó, có nhiều triết gia từng bị đánh giá là kẻ thù của đức tin và của một hệ tư tưởng nào đó được xem là chính thống, như một hình thức khác của một loại tôn giáo phi thần.


Chắc chắn rằng các loại đức tin ấy không thể đáp ứng những yêu cầu của lý trí và rằng không thể duy trì những tín điều bị áp đặt một cách độc đoán về cuộc sáng thế tối hậu của vũ trụ. Những ai xem trang trọng đức tin của mình nên quyết tâm xem xét nó để bảo đảm rằng đức tin ấy không có tính nhẹ dạ cả tin hoặc mê tín.
 

Ðức tin và lý trí


Có những thí dụ về đức tin trong quá khứ từng bị lý trí vạch trần. Và ngày nay con người cảm thấy nó chỉ được chứ không mất, nghĩa là phong phú hơn nhờ sự vạch trần ấy. Một đức tin chân chính sẽ hưởng lợi nhờ tra vấn. Và rất có khả năng rằng trạng thái tri thức hữu hạn hiện nay của chúng ta hẳn vẫn còn chỗ rất rộng cho đức tin. Nếu như thế, cách tốt nhất là đức tin nên đến với chúng ta trong liên quan tới lý trí.

Triết gia không đòi hỏi kẻ khác điều mà bản thân y không sẵn sàng chấp nhận. Nếu y đòi quyền được phê phán ý kiến của người khác, y phải chấp nhận quyền của người khác phê phán y. Chỉ từ hoạt động hợp tác như thế mới có thể đẩy mạnh chính nghĩa của chân lý. Cũng giống như mọi người, triết gia có khả năng sai lầm và y phải nghênh đón những lời phê bình sửa chữa các cái nhìn hữu hạn của mình.
 

Tác hại của không thể sai lầm


Hẳn Aristotle sẽ phàn nàn nếu ông biết trước hay chứng kiến lòng tôn kính thẩm quyền của ông đã hạn chế sự tăng tiến trí thức thời Trung Cổ. Và nếu có thể kể tới những trung thành trong thế kỷ 20 vừa qua, chúng ta cảm thấy chắc chắn rằng Marx và Engels hẳn phẫn uất về sự tận hiến của các môn đồ thời hiện đại khi họ từng qui cho các tác phẩm của hai ông là không có khả năng sai lầm.

Triết học là một môn học cấp tiến. Khi khoa học tăng tiến thì thông giải của khoa học cũng phải tăng tiến. Trước khi nói xong lời tuyên bố tối hậu, trong triết học chỉ có một chỗ rất nhỏ cho những lời tuyên bố chắc chắn.
 

Trong bàn tay của bạn


Cuốn sách này được biên soạn cho người mới đặt chân vào con đường học triết chứ không phải cho triết gia. Vì thế, nó chỉ nêu ra một số chủ đề căn bản và tìm các đáp án về chúng bằng một cung cách kích thích tính hiếu kỳ, để từ đó gợi tới nhưng câu hỏi hơn là những câu trả lời thấu đáo.
Khi trình bày các giải đáp, chúng tôi cố gắng đề cập tới các lập trường thế này thế nọ, có tính chọn lựa, để cho thấy những khó khăn liên quan tới việc đi đến một quyết định. Rất có thể những câu trả lời thế này hoặc thế nọ không thể hòa hợp nhau hoặc tất cả đều sai, tùy vào quyết định của bạn, người đeo đuổi cho tới dòng chữ này.

Lời cuối


Như thế, cuốn sách này không có dự tính đưa ra một hệ thống học thuyết để bạn ghi nhớ hay chấp nhận, nhưng như một hướng dẫn cho người muốn mạo hiểm dấn thân vào sự nghiệp triết học và kích hoạt tư tưởng. Nó sẽ thất bại nếu người đọc không sẵn sàng đi theo các câu hỏi tới nơi nó dẫn tới và sẵn sàng phê phán các giái đáp nó đã trình bày như những gợi ý để tìm cách trả lời các chủ đề ấy. Người đọc có lẽ nên gạn lọc và chấp nhận câu trả lời nào có vẻ tương hợp với các bằng cớ và sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu của lý trí.

Cuối cùng, xin được nhắc lại một phân tích ở chương trước. Một hệ thống triết học là một sản phẩm riêng tư và chỉ có giá trị khi nó thể hiện được nỗ lực chân thành và thẳng thắn của người tạo ra nó. Là con người, bạn có khả năng tư duy; nó là cái hướng dẫn an toàn và duy nhất tới chân lý; đừng ngần ngại dùng nó, và trong khi được bạn sử dụng, lý trí của bạn sẽ tự cải thiện nó, trở thành một công cụ ngày càng nhạy bén hơn. Ðó là thông điệp của cuốn sách này. Và đó cũng là tinh thần triết học dành cho bạn, người vừa rướn thêm một bước qua ngưỡng cửa của triết học.

ST