Jul 7, 2012

Những nét độc đáo trong "Thuốc" của Lỗ Tấn



Những nét độc đáo trong "Thuốc" của Lỗ Tấn


Trong di sản văn học của Lỗ Tấn, Thuốc là truyện ngắn đặc biệt và luôn giữ một vị trí quan trọng, độc đáo trong cách thức kết cấu, tổ chức không gian, bố trí nhân vật và tái hiện nhân vật.

Với kết cấu bốn phần, mạch lạc tạo ra cảm giác kết cấu khai - thừa - luận - kết hay khai - thừa - chuyển - hợp tương tự như kết cấu của một bài thơ cổ điển, được đánh số thứ tự từ I đến IV, câu chuyện mang tiêu đề vừa thực vừa biểu trưng – Thuốc - được chia thành hai không gian rất đặc trưng gắn với nhan đề tác phẩm: không gian quán trà nhà lão Hoa với ba phần và không gian nghĩa địa với phần còn lại mà độ dài không kém ba phần kia là bao.

Phần khai truyện, tương ứng với phần khai đề của một bài thơ cổ điển, được mở ra từ không gian thứ nhất bằng một buổi sáng sớm, chưa sáng hẳn song cũng đã chuyển sang một ngày mới với nội dung chính là mua thuốc. Đó là “một đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi, nhưng mặt trời chưa mọc”. Bóng tối bao trùm lên không gian ấy, trời không trăng cũng chẳng có sao nên “ngoài những giống đi ăn đêm, còn thì ngủ say cả”. Để xua đi cái bóng tối ấy, lão Hoa, chủ nhân của ngôi nhà vừa để ở vừa để bán hàng, đã “đánh diêm, thắp cái đèn nhầy nhụa những dầu là dầu” để tạo ra một thứ ánh sáng “trắng xanh sáng khắp hai gian quán trà”. Ánh sáng ấy không làm cho ngôi nhà ấm lên, hay sáng thêm mà chỉ làm cho nó chìm ngập sâu hơn vào bóng tối đang phủ dày xung quanh, khiến sự trầm lắng có chiều sâu và hoàn cảnh buồn bã thê thảm hơn. Ánh sáng ấy cũng mang tính chất khác thường. Đã thế sau khi thắp ngọn đèn lồng, lão Hoa lại “tắt ngọn đèn con”, tắt luôn thứ “ánh sáng trắng xanh” đầy vẻ ma quái, hăm dọa ấy. Cảm giác về bóng tối bao trùm lại hiện ra khi lão bước ra “ngoài đường, trời tối om và hết sức vắng”. Trong bóng tối ấy, lão đi vừa với tràn trề hi vọng, vừa nơm nớp lo cho gói bạc cồm cộm trong túi. Lão đi đến nơi sẽ có phương thuốc diệu kì chữa bệnh cho con lão, phương thuốc được truyền khẩu trong dân gian song không phải ai cũng biết, kể cả lão Hoa.

Sự dịch chuyển thời gian được đánh dấu bằng: “Trời cũng sáng dần và đường cũng càng lâu càng rõ” và lão cũng đến được nơi lão cần đến: một ngã ba đường nơi có “một cửa hiệu còn đóng kín mít”. Tại đó, như một người lạc đường vào một xứ sở mới, lão “ngước đầu nhìn xung quanh” và “thấy bao nhiêu người kì dị hết sức, cứ hai ba người một, đi đi lại lại như những bóng ma. Nhưng nhìn kĩ thì lại chẳng lấy gì làm quái lạ nữa”. Đúng là lão đang rơi vào trạng thái trông gà hóa cuốc, thần hồn nát thần tính mà tất cả cũng chỉ vì phương thuốc mà nhà lão đang rất cần để chữa bệnh cho con. Thứ ánh sáng ở đây tạo cho lão cái nhìn ảo giác, vừa thực vừa hư mà cho dù không viết một lời bình nào nhưng tác giả cũng hé lộ cho ta thấy trạng thái tâm lí lưỡng phân của lão Hoa. Nếu có ai đó nhìn lão thì cũng nhìn bằng “ánh mắt cú vọ ngời lên, như người đói lâu ngày thấy cơm” hoặc nhìn lão với đôi mắt “sắc như hai lưỡi dao chọc thẳng vào lão”. Những cặp mắt ấy cùng với những cái nhìn kia gia tăng sức nặng cho phương thuốc “đặc biệt lắm”, đó là “một chiếc bánh bao nhuốm máu” mà lão nhìn rõ là “đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt từng giọt”. Tác giả kể một cách tuần tự, không vội vã, như thể đang theo nhịp của từng giọt máu đang nhỏ xuống. Màu đỏ của máu tương phản với sắc phục màu đen của người bán bánh tạo ra ấn tượng hãi hùng, vừa huyền bí vừa mang sắc thái mỉa mai và đây là hai màu sắc đặc trưng mà lão Hoa nhận ra cũng như tác giả nhấn mạnh cho độc giả biết.

Việc mua bán đã xong và lão đã có trong tay “cái gói bánh”, lão nâng niu nó như “nâng niu đứa con của gia đình mười đời độc đinh”. Có “gói bánh ấy” lão hoàn thành trách nhiệm làm cha, và lại cũng báo hiếu được cho tổ tiên, cứu cho dòng dõi nhà mình không dứt dòng tuyệt giống theo triết lí của đạo Khổng. Hình ảnh mặt trời lại xuất hiện: “Mặt trời đã mọc, chiếu sáng con đường lớn đi về nhà lão, và cũng chiếu sáng cái biển mục nát trên cái nhà bia ở ngã ba đường sau lưng lão, có đề bốn chữ thếp vàng đã nhạt màu Cổ… Đình Khẩu”. Tác giả dường như cố tình bỏ mất một chữ, song thực ra chỉ nhằm để chứng minh thêm rằng vầng dương đang chiếu sáng kia cũng chỉ là vầng dương yếu ớt, không đủ để soi rọi cả bốn chữ mà chỉ đủ chiếu sáng có ba.

Số lượng nhân vật trong truyện có thể nói là nhiều, song hiện hình rõ rệt chỉ có bốn. Trước hết là vợ chồng lão Hoa chủ quán hiện ra chỉ với những động tác mà không có nét ngoại hình nào. Hai vợ chồng rất kiệm lời, thể hiện sự nhất trí nhưng đầy băn khoăn nghi ngại mà cả vợ lẫn chồng đều không dám nói ra. Vì thế khi cầm gói bạc để đi mua thuốc, tay lão Hoa cứ “run run”, và cả khi đưa tiền để lấy chiếc bánh bao đẫm máu người tay lão cũng “run run”, khi gặp người lạ thì lão “trố mắt lên”. Nhân vật Thuyên được giới thiệu bằng “một cơn ho” và lời dặn dò của lão Hoa mà không hiện ra cụ thể, song qua cách giới thiệu như vậy độc giả đã nắm bắt được lí do ra đi vào buổi tờ mờ sáng, khi còn chưa rõ mặt người, của lão Hoa với gói bạc dành dụm được từ lâu. Cơn ho còn là động lực thúc đẩy lão Hoa phải đi, vừa tạo ra sự thấp thỏm đợi chờ của bà Hoa. Một nhân vật khác được miêu tả qua bộ “áo quần đen ngòm”, song có khác hơn một chút là hắn có cặp “mắt sắc như hai lưỡi dao” với cử chỉ và cách nói dứt khoát: “Này! Tiền trao cháo múc, đưa đây!”. Nhân vật này hiện ra với cách thức của một kẻ đao phủ chuyên nghiệp, lọc lõi chuyên buôn máu người chết. Hắn cũng chẳng nói nhiều và cũng biết chẳng cần nói nhiều nhưng đã nói thì lời của hắn phải là mệnh lệnh. 

Số nhân vật khác hiện dưới dạng các đám đông “tụm năm tụm ba” mà không thể biết số lượng là bao. Ngoài ra, còn “mấy người lính” được phân biệt không phải qua tên người hay khuôn mặt mà qua dấu hiệu quần áo có đính “miếng vải tròn màu trắng ở vạt áo trước và vạt áo sau”. Đây là loại nhân vật được định danh bằng kí hiệu qui ước, song cũng thuộc loại nhân vật đám đông. Tất cả họp thành một cái chợ đặc biệt. Kẻ bán, bán loại thuốc “đặc biệt”, còn người mua tuy ngại ngùng song không thể không mua. Cái vô giá của mặt hàng ấy không phải ở chất liệu bánh mì làm nên chiếc bánh bao mà ở chỗ nó được tẩm máu phạm nhân chết chém. Người phải chết đã chết rồi nhưng phần cơ thể của họ, hiện hình qua những giọt máu đỏ tươi còn rỏ dài theo bước chân của kẻ bán, tạo nên một nghịch cảnh trớ trêu, đầy nước mắt. Số lượng người đến mua không đếm được song không phải là ít ỏi dưới mức bình thường, càng cho thấy rõ hơn nỗi đau của đám dân chúng cuồng tín mê muội mà tác giả ngầm gửi gắm trong câu chuyện.

Con đường mà lão Hoa đi bắt đầu từ nhà lão và kết thúc tại ngã ba đường, nơi có “ngôi nhà còn đóng cửa kín mít” mà lão đã đứng chờ để mua phương thuốc thần diệu, nơi những người “tụm năm tụm ba lúc nãy” “dồn lại một chỗ”, “xô nhào tới như nước thủy triều”, “quây lại thành một nửa vòng tròn”. Con đường đưa lão trở về hiển nhiên cũng chính là con đường ấy, song điều khác biệt là đám người “tụm năm tụm ba” kia, đám người “quây thành nửa vòng tròn” kia đã biến mất từ lúc nào và thay vào đó chỉ là tấm bia có “cái biển mục nát”, bốn chữ chỉ còn ba. Sức gợi của mạch văn ở đây là rất lớn mà nếu chỉ đọc bàng bạc lướt qua thì chắc hẳn sẽ bỏ rơi những giá trị nhận thức cần thiết không chỉ để hiểu câu chuyện mà còn để hiểu thời đại mà câu chuyện đề cập tới nữa. Đám người biến mất tăm mất dạng ở ngã ba đường, lão Hoa cũng chỉ đến ngã ba đường rồi quay lại. Ngã ba đường nơi người ta bán bánh bao tẩm máu người, nơi người ta tận dụng cái chết để tạo thành thuốc “đặc biệt”, nơi nuôi dưỡng niềm tin mù quáng và cuồng tín. Ngã ba đường là nơi người ta phải chọn lựa, song sự chọn lựa của lão Hoa chỉ là quay về nhà với niềm tin vào chiếc bánh tẩm máu người mang sức mạnh thần bí. Ngã ba đường này vừa thực lại vừa hư, một ngã ba đường với cái nhà bia tưởng niệm với cái biển đề mục nát. Ngã ba đường kiểu này thường gắn với hình tượng con đường vốn tiêu biểu cho tài năng và trí tuệ của Lỗ Tấn.

Phần thừa đề diễn ra ngay trong ngôi nhà - quán trà ấy mà ta có thể tóm gọn nội dung bằng cụm từ dùng thuốc. Ánh sáng cũng không sáng hơn cho dù có “ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên” từ trong gian bếp, tuy nhiên với ánh sáng ấy cũng đủ để nhận ra “trên đĩa có vật gì tròn tròn, đen thui” qua màu đen của vỏ chiếc bánh bao bị “cháy sém” và “làn hơi trắng” bốc ra từ chiếc bánh bị bẻ làm đôi, tiếp đó là ruột bánh bằng “bột mì trắng”. Hành động diễn ra ở đây không nhiều nhưng đều được thể hiện một cách rất cẩn trọng, đầy xác tín. Hình ảnh “thằng Thuyên đang ngồi ăn cơm ở cái bàn dãy phía trong, mồ hôi trán nhỏ từng giọt to tướng, chiếc áo kép dính vào sống lưng, hai xương vai gồ lên thành chữ “bát” in nổi” trong mở đầu đoạn II với cách thức “Thuyên nghe tim mình đập mạnh không sao cầm nổi, đưa tay vuốt ngực” khi kết thúc phần II, gợi ra cảm giác mong manh, vô nghĩa của phương thuốc “đặc biệt lắm” mà lão Hoa mua về. Ngoài màu đen của vỏ chiếc bánh bị cháy sém và màu trắng của làn hơi bốc lên từ chiếc bánh bị bẻ đôi mà làn hơi đó cũng mang lại cảm giác rợn người là màu chủ đạo, ở đây còn xuất hiện mùi vị qua sự cảm nhận của nhân vật Năm Gù: “Thơm ghê quá”, song đó là “mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà”, mùi thơm tỏa ra từ chiếc bánh bao tẩm máu người được bọc lá sen để nướng. Cái “mùi thơm quái lạ” này càng tăng thêm ấn tượng cho phương thuốc đặc biệt, vừa tạo ra niềm tin cho vợ chồng lão Hoa vừa đe dọa cảm thức tâm linh của họ.

Số lượng nhân vật ở đây cũng chỉ có bốn song vợ chồng lão Hoa chủ quán cũng chỉ được giới thiệu qua các động tác, cử chỉ là chủ yếu, ngoại trừ hình ảnh “bà Hoa từ trong bếp chạy ra, giương to đôi mắt, đôi môi run run”. Còn thằng Thuyên đứa con còn lại của một gia đình “mười đời độc đinh” được giới thiệu kĩ hơn. Trước hết là hình dáng với “hai xương vai gồ lên thành chữ “bát” in nổi” cho thấy căn bệnh của nó đã vô phương cứu chữa và vì thế sự tuyệt vọng của gia đình càng tăng hơn. 
Rồi các động tác ăn bánh của nó, ngoan ngoãn hiền lành, bảo ăn thì ăn, bảo uống thì uống, bảo nằm thì nằm, không hề hé răng nửa lời bởi nó chẳng còn đủ sức mà nói mà phô nữa, tới mức mới vừa nuốt khỏi cổ nó cũng quên tuốt luôn “mùi vị” của cái bánh mà nó vừa nhai nuốt, bởi lẽ nó cũng đã mất đi cảm giác ngon miệng, bởi bệnh đã trầm trọng lắm rồi. Cách hành động của Thuyên được thể hiện rõ nhất lúc hắn cầm chiếc bánh: “Thuyên cầm lấy vật đen thui, nhìn một lúc, có cảm giác rất lạ không biết thế nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong tay”. Cái “lạ” trở thành cảm giác chung được mọi nhân vật nhận biết nhưng cả cha mẹ lẫn đứa con đều không nói cho nhau nửa lời về chuyện đó. Cái “lạ” dường như chứa đựng một điều gì đó bí ẩn, khác thường, mà tuy nhận ra cái khác thường ấy, khác thường bởi đó là chiếc bánh bao tẩm máu người, song cả lão Hoa lẫn bà Hoa đều có cảm giác như là vật thiêng cứu mạng. Cách trả lời duy nhất của thằng Thuyên là “ho”, là những “cơn ho”. Cho nên khi thấy đứa con ăn có vẻ ngon lành thì hai ông bà cứ “trố mắt lên” như thể đang đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác hoặc giả cũng có thể quá đỗi lo sợ vì đứa con đang ăn nhanh để mà chết chứ không phải để kéo dài cuộc sống thì cả hai đều không thể nói ra lời nên đành phải “trố mắt” mà nhìn vậy. Hình ảnh “lão Hoa đứng một bên, bà Hoa đứng một bên”, còn ở giữa là đứa con tạo ra cảm giác như thể hai người đó đang đứng hai bên chiếc quan tài trong một đám tang. Cảnh tượng đó thật hãi hùng song có tính biểu tượng rất lớn và kèm theo đó là nỗi đau tuyệt vọng, vừa của người đang sống mòn mỏi vô vọng lẫn của cả người đang chết dần một cách tuyệt vọng. Tác giả khi miêu tả hai ông bà này cũng chỉ đặc tả trạng thái bất bình thường của họ qua đôi mắt mà cụm từ được sử dụng nhiều nhất là “trố mắt lên”, còn khi phải hành động thì luôn “run run”. Bà Hoa “run run” sợ chồng không mua được thuốc, lão Hoa “run run” khi đón nhận chiếc bánh bao tẩm máu người từ tên đao phủ. Hoàn cảnh mà cả hai bị đặt vào thật hết sức thương tâm.

Nhân vật thứ tư xuất hiện trong phần này là nhân vật có tên: “cậu Năm Gù”- cái tên này trước hết là một số thứ tự tạo ra ấn tượng về kiểu nhân vật vô danh, kiểu nhân vật mang kí hiệu qui ước, kèm theo đặc điểm nhân dạng qua biểu hiện tật nguyền của con người đó: nhân vật bị “gù”. Xét về bản chất, đây là loại nhân vật vô công rồi nghề, thể hiện ở chỗ: “cậu ta ngày nào cũng lê la ở cái quán này, thường đến sớm nhất mà cũng về muộn hơn ai hết”. Cái mà cậu ta cảm nhận được là mùi vị bốc ra từ gian bếp. Cái mùi đối với vợ chồng lão Hoa là “quái lạ” thì lại được nhân vật cảm nhận thành mùi cơm rang: “Thơm ghê nhỉ !”. Sự tật nguyền của cơ thể chưa đủ, tác giả cho nhân vật này tật nguyền luôn cả khứu giác. Con người này, bao giờ cũng đến sớm nhất và ra về muộn nhất, tại nơi mà một con bệnh đang hấp hối khiến cho không gian ngôi nhà - quán trà trở thành không gian đầy tử khí, nơi đó sự sống đang dần bị mất đi, cái chết đang lấn tới, bởi cái chết không chỉ hiện diện trong ngôi nhà - quán trà đó mà còn cả cái chết được mua, mang từ ngoài về. Nhưng những con người đó không chỉ chết dần về mặt thể xác mà điều quan trọng hơn là họ đang chết cả về tâm hồn lẫn trí tuệ.

Không gian ngôi nhà - quán trà ấy tiếp tục được mở ra trong phần III - phần luận đề hay chuyển đề của câu chuyện, với số lượng người có vẻ tấp nập hơn, ồn ào hơn nhưng cũng buồn bã hơn. Nội dung câu chuyện được bàn ở đây là công dụng của thứ thuốc “đặc biệt” và nguồn gốc của thứ thuốc ấy. Ánh sáng cũng không sáng hơn, chỉ đủ để phân biệt màu huyền trên chiếc áo và chiếc thắt lưng của nhân vật Cả Khang. Ngoài cậu Năm Gù vốn đã ngồi sẵn từ lâu ở đấy, xuất hiện thêm một người có “râu hoa râm”- nhân vật không có tên mà chỉ được định danh bằng đặc điểm cơ thể - sẽ đóng vai người khơi mở ra câu chuyện được bàn ở đây. 
Nhân vật Cả Khang với cái tên mang vẻ quyền uy kẻ cả trong làng, thể hiện luân lí tôn ti thứ bậc của văn hóa Trung Hoa, được mọi người trong quán “cung kính”, được miêu tả qua trang phục áo “không cài khuy”, “xộc xệch”, vào quán chẳng thèm chào hỏi đã nói “oang oang” như thể trấn áp những người khác, với lối nói dồn dập chứa nhiều câu hỏi, với giọng điệu kể công, ban ơn. Nhân vật này còn được miêu tả bằng một đặc điểm nhân dạng đặc biệt “người mặt thịt ngang phè”, khi nói thì “những thớ thịt trên mặt nổi từng cục”và cách nói cũng khác thường, kẻ cả: “cứ giương cổ nói oang oang”. Nhân vật này bốn lần “cam đoan thế nào cũng khỏi” và một lần khẳng định như đinh đóng cột “nhất định sẽ khỏi thôi mà”. Bởi theo lão thì sự hiệu nghiệm của phương thuốc nằm ở chỗ nó còn “nóng hôi hổi”, “lấy về còn nóng hôi hổi” và “ăn cũng còn nóng hôi hổi”, kèm theo đó là một sự so sánh thẳng thừng, không úp mở “bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì mà ăn chẳng khỏi”. Bí mật của phương thuốc “đặc biệt lắm” đã xuất đầu lộ diện. Thằng Thuyên, người trực tiếp sử dụng thứ thuốc ấy, không nói không rằng, chỉ lấy tiếng ho để minh họa. Nó phải “ho lên” để “phụ họa”, nó phải “hai tay ôm lấy ngực, ho lấy ho để”, nó phải “thừa dịp ho cố mạng”. Còn động tác của nó thì “bước chậm rãi”, người thì “mồ hôi ướt đầm, trên đầu hơi bốc phừng phừng”. Đặt hai nhân vật này trong quan hệ đối sánh thì công dụng của thứ thuốc “đặc biệt” nổi bật lên mà tác giả cũng chẳng cần thêm lời bình luận. Đồng thời cũng khu biệt được kiểu người Cả Khang. Điều này càng được khắc họa rõ hơn bằng chính lời của hắn, khi trả lời câu hỏi của người “râu hoa râm”. 

Nhân vật người có “râu hoa râm”, là đại diện cho một tầng lớp xã hội đông đảo hiện diện trong Thuốc và được đặt đối sánh với “anh chàng trạc hai mươi tuổi” để từ đó làm nổi bật khả năng nhận thức cũng như để minh chứng cho sự u mê lầm lạc của lớp người như thế. Cùng loại với nhân vật “râu hoa râm” này trước hết là ông bà Hoa, là lão Nghĩa “đề lao” “mắt đỏ như mắt cá chép” và hiển nhiên là cả lão Cả Khang. Nhân vật “râu hoa râm” tuy có nhận ra vẻ bất thường trên nét mặt lão Hoa, nhưng cũng không phân định được là ông ta có ốm thật hay không, lại còn đưa ra câu bình tán có vẻ thức thời nhưng lại không đúng đối tượng: “đánh cái đồ ấy, thương hại cái gì?” cho dù có biết “người bị chém hôm nay là người họ Hạ”. Đây là kiểu nhân vật u u mê mê, muốn hiểu không được hiểu, muốn biết không được biết, kiểu người tự mình mò mẫm tìm đường đi. Bởi thế dù nhân vật có đi tới khẳng định: “Lão Nghĩa mà đáng thương hại à?” thì vế tiếp theo của lời phát ngôn ấy: “Điên! Hắn điên thật rồi!” lại càng nhấn mạnh thêm tính chất thức tỉnh qua việc “vỡ nhẽ” của con người này.

Cho dù được gọi kèm theo đại từ “bác” qua cửa miệng của bà Hoa song Cả Khang là kiểu người cơ hội, vụ lợi, chuyên rình mò kiếm chác từ cái chết của người khác, coi thường mạng sống của người khác: “Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa, thế thôi. Lần này tớ chẳng nước mẹ gì. Đến cái áo nó cởi ra , cũng lão Nghĩa, cái lão đề lao, mắt đỏ như mắt cá chép ấy, lấy mất”. Cái chết của Hạ Du dưới con mắt của lão Cả Khang thì đấy là một dịp may hiếm có mà “may nhất có thể nói là ông Hoa nhà này, thứ đến cụ Ba. Cụ ta được thưởng hai mươi lạng bạc trắng xóa, một mình bỏ túi tất, chẳng mất cho ai một đồng kẽm!”. Ba lần Cả Khang nhấn mạnh với ông Hoa và với những người đang có mặt ở đấy: “may phúc cho nhà ông”, “phúc nhà ông”, “thằng Thuyên nhà ông may phúc thật” mà tất cả đều dồn tụ vào chỗ “đấy là nhờ tôi biết tin sớm”. Quả là một tay săn lùng xác chết để kiếm lời điển hình của xã hội u mê và phần thưởng mà hắn được hai ông bà chủ quán ngoài sự “cảm ơn hết lời” của bà Hoa, thì bà còn bỏ thêm vào chén trà của hắn “một quả trám” như là một cách báo đáp ơn nghĩa theo cách của những người nghèo khổ. 
Hắn tán thưởng cách kiếm tiền nhanh chóng của cụ Ba: “Cụ Ba đến là khôn! Giá cụ ta không đem thằng cháu ra thú thì cả nhà mất đầu hết. Nay thì được bao nhiêu là bạc!”. Trong cách tán thưởng ấy còn thấy rõ sự tiếc rẻ của hắn vì hắn chẳng có một cơ hội nào tương tự. Hắn gọi Hạ Du bằng những từ ngữ ngạo mạn, khinh rẻ: “thằng quỉ sứ”, “thằng nhãi con”, là “giặc”, coi những người dưới tuổi hắn “chẳng ra cái thá gì hết”. Một mình Cả Khang “nói oang oang” độc chiếm diễn đàn của cử tọa nơi quán trà ấy. Hắn vừa là người phân giải, vừa là kẻ phán quyết phải trái theo cách của hắn hiểu và suy nghĩ hành động theo đúng cách nghĩ, cách hiểu ấy, nghĩa là phải đem những người có quan điểm: “thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta”, những người bênh vực cho lẽ phải, nộp cho chính quyền để lấy về, để được thưởng, chí ít là “hai mươi lạng bạc trắng xóa”. Hắn thu lời bằng cách bán cả lương tâm và tình nghĩa và chính là hậu duệ đích thực của cụ Ba mà hắn thường nhắc đi nhắc lại với một vẻ vừa đề cao vừa ganh tị bởi hắn cũng chẳng hề thua kém. Hai lần hắn nói “thật đáng thương hại” và hai lần “đáng thương hại” tương hợp với bốn lần “cam đoan thế nào cũng khỏi” của hắn, cho thấy kiểu người lầm lạc đang càng ngày càng chìm sâu vào trong mê muội cuồng tín, song càng ngày càng gây ra tác hại lớn cho xã hội bởi lẽ hắn là “kẻ cả trong làng”. Câu nói “Lần này tớ chẳng nước mẹ gì” và “Nay thì được bao nhiêu là bạc!”cho thấy bản chất đích thực của hắn.

Nhân vật cậu Năm Gù xuất hiện ra ở đây như là kiểu người vừa có vẻ a dua vừa có nhận thức nhất định. Đây là kiểu người ngoại lệ vì tật nguyền, trở thành vô công rồi nghề, bất lực trước mọi việc ở đời nhưng cũng đủ khả năng để nhận biết mọi thứ mà trước hết là sự ốm yếu của ông Hoa là bởi đứa con bệnh tật, nhận biết “lão Nghĩa là tay võ nghệ rất cừ”, và khi nghe xong câu chuyện Cả Khang kể thì gật gù: “Điên thật rồi”. Cách xưng hô của tác giả ở đây cũng thể hiện một sự trân trọng đối với con người tật nguyền nhưng có óc suy nghĩ và hiểu biết này. Ông gọi nhân vật này bằng “cậu”. 

Nhân vật “trạc hai mươi tuổi” không có danh tính, cũng không có đặc điểm ngoại hình nhưng lại là biểu tượng cho một cách nghĩ khác, cho một thế hệ khác. Anh ta không đơn giản chỉ nghe câu chuyện về cái chết của Hạ Du một chiều. Anh ta chỉ tán thưởng con người mà Cả Khang coi là “nhãi con”, là “giặc” ấy khi được biết người tử tù ấy “nằm trong tù rồi mà còn dám rủ lão đề lao làm giặc”. Anh ta cũng “vỡ nhẽ” khi được biết kẻ “đáng thương hại” chính là lão Nghĩa và cũng đi tới khẳng định điều đó là:“Điên thật”. 

Vấn đề tại sao khi nhắc tới câu nói của người tử tù coi lão Nghĩa là người “đáng thương hại” thì cả người có “râu hoa râm” lẫn cậu Năm Gù và anh chàng “trẻ tuổi” này đều nói là “điên”? Lão Nghĩa tuy chỉ xuất hiện qua lời kể của Cả Khang song lại rất tiêu biểu cho loại người công cụ trong xã hội ấy. Loại người này là công cụ sát nhân của các thế lực thống trị, chẳng biết phải trái, lại càng không biết đến công lí là gì. Loại người công cụ ấy có tác hại rất lớn, lại càng không thể giác ngộ, cũng không thể tự thức tỉnh. Loại người chìm đắm trong mê muội cuồng tín, lầm đường lạc lối ấy quả là “đáng thương hại” thật. Nhưng hướng tới loại đối tượng ấy để giác ngộ tuyên truyền mà người tử tù đã làm là không ổn. Huống hồ, cái áo mà người tử tù cởi ra lão cũng nhanh chóng “lấy mất”. “Điên” ở đây đồng nghĩa với việc không đúng hướng, không đúng đối tượng, do đó, dẫn tới sự “vỡ nhẽ” của nhiều người. Đây cũng chính là sự thức tỉnh của người có “râu hoa râm”, của cậu Năm Gù và của anh chàng “trạc tuổi hai mươi”. Họ đã có những suy nghĩ khác về cái chết của Hạ Du, về cái chết của con người mà máu của người đó được biến thành thứ thuốc “đặc biệt” chữa bệnh lao trong xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Họ đã nghĩ tới cái “đặc biệt” nhưng bất thường của loại thuốc đó. Và tuy không ai nói ra hay bàn tới công dụng của thứ thuốc mà Cả Khang mách bảo cho ông bà Hoa song họ đều tỏ ra nghi ngờ công dụng của nó và cũng thể hiện sự xót xa về cái chết của Hạ Du. Ánh sáng lương tri đã được thắp lại và cho dù không gian ngôi nhà - quán trà không sáng thêm nhưng nhiều con người có mặt ở đó đã bắt đầu sáng tâm sáng dạ. Công dụng của thứ thuốc “đặc biệt” và cái chết của Hạ Du được nối với nhau liền mạch và tạo ra một sự chuyển hóa mới về tâm tư, về nhận thức. Câu chuyện được trao đổi ở phần III này do đó, đóng vai trò phần luận đề, bàn bạc, mở rộng các ý nghĩa khác nhau, tạo ra sự chuyển hóa trong tiếp nhận như trong kết cấu của một bài thơ cổ điển.

Vợ chồng lão Hoa, và thằng Thuyên, đứa con bệnh tật, niềm mong mỏi cuối cùng của gia đình “mười đời độc đinh”, đóng vai trò làm nền cho câu chuyện diễn ra trong ngôi nhà - quán trà của họ. Đây là các nhân vật tĩnh, nếu không nói là bất động trong bức tranh ấy, cho dù họ có “đi đi lại lại”, “xách chiếc ấm đồng lớn” để “pha trà”. Âm thanh phát ra từ họ là tiếng ho của thằng Thuyên. Ho, được hiểu, ngoài việc là biểu hiện của trạng thái bệnh tật, còn là một kiểu phát ngôn không thành lời, thành câu thành chữ song có âm thanh mà ta có thể liên hệ với tiếng ho của bà Elmire trong vở kịch Tartuffe của Molière, nhưng lại có sức mạnh đặc biệt, một mặt vừa mỉa mai những lời “cam đoan nhất định khỏi” của lão Cả Khang, mặt khác vừa phủ nhận công năng của loại thuốc “đặc biệt” đó. Tiếng ho của thằng Thuyên và giọng nói “oang oang” của Cả Khang cứ đan xen lẫn nhau, tạo thành một hòa âm đau đớn, vang lên từ không gian ngột ngạt đầy tử khí đó. Câu chuyện chỉ diễn ra trong chưa đầy một ngày, bắt đầu từ thời điểm tờ mờ sáng và kết thúc sau đó vài giờ, song lại hàm chứa những tầng ý nghĩa sâu xa, buộc người đọc phải nghiền ngẫm nghĩ suy về thuốc ở đây là gì? Có phải chỉ là thuốc chữa bệnh thể xác đơn thuần hay là thuốc cần để chữa trị căn bệnh tinh thần, chữa trị vấn đề nhận thức mà không chỉ có những người có “râu hoa râm” cậu Năm Gù hay anh chàng “trạc hai mươi tuổi” kể cả Hạ Du nữa cũng đang cần đến ?

Phần IV đóng vai trò phần kết hay phần hợp của câu chuyện và được thay bằng một không gian khác: không gian nghĩa địa. Nhân vật chính của bức tranh này là hai bà mẹ. Họ đều có điểm chung là có con bị chết trẻ, họ cùng đến nghĩa địa để viếng con. Những người con của họ đều được chôn tại “miếng đất dọc chân thành phía Tây vốn là đất công”. Điều khác biệt là những đứa con ấy được chôn ở hai phía của nghĩa địa được ngăn cách bằng “con đường mòn, nhỏ hẹp, cong queo” do “những người hay đi tắt giẫm mãi mà thành”. Con đường tạo ra bởi thói quen, bởi thành kiến ngự trị lâu ngày, thói quen ăn sâu thành nếp nghĩ trong đầu óc mọi người, bởi thế con đường này không chỉ để đi mà con đường này còn là con đường của thành kiến, được tạo ra bằng sự u mê, dẫn tới sự đối xử không bình thường, thành sự ngăn cách tự nhiên, bất khả kháng của những con người trong xã hội ấy. Đứa con của bà Hoa được chôn ở “phía tay phải” nơi dành cho “những người nghèo”, còn đứa con của bà Hạ thì chôn ở phía tay trái, nơi dành cho “những người chết chém hoặc chết tù”. Con đường trở thành ranh giới ước định giữa “dân” và “giặc”. Điểm nổi bật lên từ nghĩa địa này là “cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ” mà từ đó toát lên ý nghĩa biểu trưng là các nhà giàu, tức tầng lớp thống trị trong xã hội Trung Hoa thời đó, tồn tại trên sự hi sinh xương máu của “dân” và của “giặc”, “dân” bị bóc lột, bị bần cùng hóa mà chết dần chết mòn trong đói khổ, còn nếu chống đối thì bị qui là “giặc” và tất yếu là phải chết. Cả hai loại chết đều cùng vì khổ đau, vì bị áp bức nhưng lại bị phân biệt đối xử rõ ràng qua hai nửa của nghĩa địa được ngăn cách bằng con đường của thành kiến mê muội ấy. Điều đó thể hiện qua hình ảnh “bà kia ngập ngừng không dám bước tới nữa, sắc mặt xanh xao bỗng đỏ lên vì xấu hổ”, bởi lẽ phần mộ của con bà nằm bên phía dành cho người “chết tù hoặc chết chém” tuy “nấm mộ” của con bà “với nấm mộ của thằng Thuyên nằm cùng một hàng, chỉ cách con đường mòn ở giữa”.

Việc vượt qua ranh giới định kiến ấy mang một ý nghĩa biểu tượng quan trọng song để có điều ấy thì phải có một biến cố. Đó là vòng hoa trên mộ Hạ Du, “một vòng hoa, hoa hồng hoa trắng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum”. Vòng hoa ấy đã làm cho bà Hạ “tay chân hơi run lên, rồi loạng choạng lùi lại mấy bước, mắt trợn trừng ngơ ngác” mà nhìn thấy sự việc đó bà Hoa “cầm lòng không đậu” đã “bước sang bên kia đường mòn”. Như vậy động lực thúc đẩy bà Hoa vượt qua con đường ranh giới giữa những ngôi mộ của người chết nghèo với những ngôi mộ của người chết chém chính là tình thương. Có thể bà Hoa không biết chiếc bánh bao mà con bà đã ăn với hi vọng khỏi bệnh song điều đó không thành, đã được tẩm bằng máu của chính Hạ Du, nhưng nếu bà có biết sự thật đó thì, trước hết, bà đau nỗi đau đồng cảm, nỗi đau của những bà mẹ mất con, cho nên bà “sợ bà kia thương con quá” mà “phát điên”. Và rồi cũng như bà Hạ, bà Hoa ngạc nhiên: “Cả hai bà, mắt mờ từ lâu rồi, nhưng nhìn những cánh hoa trắng hoa hồng kia thì còn thấy rõ”. Để so sánh, “bà Hoa vội nhìn về phía mộ con mình và những nấm mộ khác xung quanh, chỉ thấy vài nụ hoa không sợ lạnh, bé tí, trắng trắng, xanh xanh”. Sự so sánh đó đã khiến bà ngạc nhiên và sự ngạc nhiên đó lại càng được tăng lên qua phát ngôn của bà Hạ: “Hoa không có gốc, không phải dưới đất mọc lên! Ai đã đến đây? Trẻ con không thể đến chơi. Bà con họ hàng nhất định là không ai đến rồi!... Thế này là thế nào? Rõ ràng vòng hoa ấy không phải ngẫu nhiên mà là vòng hoa có chủ và được đặt vào mộ Hạ Du một cách có chủ ý. Song ai là chủ nhân của vòng hoa ấy thì cả hai bà đều không biết được và bà Hạ chỉ luôn nghĩ đến nỗi oan khuất của con mình. Nỗi oan mà chính bà con họ hàng của bà đã gây ra và càng không ai dám đến đó nữa để khỏi phải liên lụy. Bà cũng chưa nghĩ được xa hơn đến những đồng đội, đồng chí của Hạ Du, tới những người cùng chí hướng với Hạ Du. “Hoa không nhiều lắm, xếp thành vòng tròn tròn, không lấy gì làm đẹp, nhưng cũng chỉnh tề”, trở thành biểu tượng của sự thống nhất ý chí, của sự đoàn kết, của một niềm tin mới được khơi dậy. Khác với đám người “tụm năm tụm ba” tại ngã ba đường trên kia mà cũng chỉ xếp được nửa vòng tròn thì ở đây vòng tròn đã rõ nét, đã liền khối, và cho dù chưa tròn lắm song cũng đã định hình. Tất cả khơi gợi trong tâm trí bà Hạ một điều gì đó, một cảm thức nào đó khó tả. Câu hỏi: “Thế là thế nào nhỉ?” cứ trăn đi trở lại trong lòng bà Hạ, song nó đã có định hướng bằng một hình tượng đầy biểu trưng khác, đó là hình ảnh con quạ. Có thể bà Hoa cũng không biết tên bà Hạ cũng như bà Hạ không biết tên bà Hoa. Sự gặp gỡ của họ chỉ là ngẫu nhiên vì tiết thanh minh, theo truyền thống văn hóa Trung Hoa, ai cũng đi tảo mộ, thăm mộ. Nhưng tác giả đã cố ý xếp đặt để cho họ gặp nhau vào thời điểm hợp lí đó và vào tiết thanh minh mùa xuân, cho dù lúc ấy “trời vừa rạng” thì hơi ấm tình người của họ kết hợp với vòng hoa bất ngờ trên mộ Hạ Du cũng sưởi ấm cho họ, khơi dậy cho họ một niềm tin vào một cái gì đó mới mẻ mà họ cũng chưa biết được. Không gian ở đây cũng rộng lớn hơn và tuy vẫn phảng phất màu sắc ảm đạm vì là nghĩa trang nhưng điều khác biệt là không gian này đã có thêm chiều cao vươn tới, nó không còn bị giới hạn và ngột ngạt như không gian ngôi nhà - quán trọ. Tính chất ảm đạm, thê lương của không gian nghĩa trang cũng được giảm bớt khi sự sống mới bắt đầu trở lại, khi con người đã nhận ra được con đường tất yếu mà họ phải đi, khi tình người được nối lại, khi khối đoàn kết dân tộc thống nhất được tạo ra.

Con quạ là một hình ảnh đặc biệt và có ý nghĩa biểu trưng trong phần kết truyện. Khi đang cố nhìn ngó xung quanh để xem ai đã đến đặt vòng hoa lên mộ con bà thì bà Hạ chỉ nhìn thấy “một con quạ đen đậu trên cành khô trụi lá”. Tiếng khóc của bà Hạ cất lên sau đó là lời kết án, theo luật nhân quả báo ứng trong tâm thức của những người dân bình thường: “chúng nó giết con thì rồi chúng nó sẽ bị báo ứng thôi”. Con quạ trong văn hóa Trung Hoa có một ý nghĩa khác với quan niệm dân gian của Việt Nam. Ở Việt Nam, con quạ là kẻ tham ăn, vì thế nó đã phải mang bộ lông màu đen suốt đời, là biểu tượng của điềm dữ, thường gắn liền với những bất hạnh của con người. Con quạ vốn là loài chim phổ biến ở các nước xứ lạnh. Trong văn hóa Trung Hoa cũng như trong văn hóa Nhật Bản, con quạ là biểu tượng của “đức hiếu thảo”(1), cho nên lời cầu khẩn của bà Hạ: “Nếu hồn con quả thật đang ở đây nghe lời mẹ nói thì con ứng vào con quạ kia, đến đậu vào nấm mộ con cho mẹ xem, con ơi!” cũng cho thấy quan niệm văn hóa đặc biệt đó. Cho dù “con quạ vẫn đậu trên cành khô trụi lá, rụt cổ lại, im lìm như đúc bằng sắt” thì trong cảm thức bà Hạ vẫn sống dậy một niềm tin. Ngoài ra, người Hán xem quạ như một dấu hiệu thần kì để tái lập trật tự xã hội, người Nhật xem quạ là biểu tượng của tình cảm gia đình. Đối với người Trung Hoa, quạ là con chim của mặt trời, là hiện thân của mặt trời, là “kim ô” mà câu chuyện Hậu Nghệ bắn mặt trời luôn được truyền tụng đã cho thấy điều đó. Số là thượng đế phái mười con quạ mang ánh sáng từ cây dâu của mặt trời đi khắp bốn phương tám hướng, nhưng chúng thường tụ tập với nhau một chỗ khiến cho mặt đất nứt nẻ, bốc cháy. Hậu Nghệ đã bắn chết chín con, chỉ còn một con sợ quá trốn biệt sau phải nhờ con gà cất tiếng gáy để gọi về.

Hình ảnh hai bà già cùng đi về, bên nhau, có thể sóng đôi hoặc kẻ sau người trước, song đều cùng về, tạo ra sự tiếp nối mà ghép tên của hai bà, Hoa và Hạ, thì sẽ có ngay tên gọi của Trung Hoa hùng mạnh, thống nhất và thái bình cổ xưa: đất nước Hoa Hạ. Họ cùng bước trên một con đường chung, con đường đó không có ngã ba nào. Kết hợp hình ảnh hai người cùng đi ấy với hình ảnh con quạ cất lên một tiếng kêu “rất to”, rồi “xòe đôi cánh, nhún mình” và “vút bay thẳng về phía chân trời xa”, “như một mũi tên” và gắn với kiểu thức tư duy của Trung Hoa coi quạ là mặt trời thì con quạ bay lên đồng nghĩa với mặt trời đã mọc, là dấu hiệu của một trật tự xã hội mới đã xuất hiện, thì ta sẽ thấy rõ hơn niềm tin của Lỗ Tấn vào tương lai, vào sự thức tỉnh của những người dân vốn trước đây mê muội, đã từng sử dụng bánh bao tẩm máu người để làm thuốc. Họ đã thức tỉnh, họ đã biết cùng sát cánh bên nhau. Con đường ngăn cách hai loại người chết trong cùng một nghĩa địa không còn là ranh giới ngăn cách hai bà mẹ nữa. Ranh giới ấy đã bị xóa nhòa. Vòng hoa trên mộ Hạ Du trở thành vòng hoa biểu trưng cho sự chiến thắng, của tình người vốn bị cuồng tín, mê muội chia cắt nay đã lại nối liền thành một khối thống nhất. Một sức mạnh mới đã hình thành. Phần IV mang lại cho độc giả những kết luận quan trọng mà tác giả gửi gắm và gợi mở một tương lai, thắp sáng và thức tỉnh mọi người, bằng sự hợp nhất những con người vốn bị chia rẽ.

Câu chuyện nhẹ nhàng, không có xung đột gay cấn, song với cách thức tổ chức theo hệ thống khai - thừa - luận – kết, khai – thừa – chuyển - hợp, đã tạo thành một cốt truyện hoàn chỉnh, chặt chẽ, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, vừa đẹp về mặt kết cấu, tổ chức nghệ thuật, vừa chuyển tải được một nội dung mang tính cách mạng cao. Câu chuyện được tái hiện trong hai không gian khác nhau, mỗi không gian đều có những nét riêng, độc đáo, đều nhằm nhấn mạnh một khía cạnh riêng của chủ đề. Câu chuyện diễn ra trong hai không gian đều có khung thời gian được kể là một buổi sáng, tạo ra một kiểu trùng lặp nhằm nhấn mạnh sự thay đổi về nhận thức của con người. Điều khác biệt là buổi sáng của không gian thứ nhất thuộc về mùa thu, mùa của sự tàn tạ, héo hon, của sự buồn bã chia li, còn buổi sáng của không gian thứ hai gắn với mùa xuân, mùa của sự sống trỗi dậy, mùa của sự sinh sôi nảy nở, cho dù trong không gian thứ hai có hình ảnh cành cây khô trụi lá, nhưng “những cây dương liễu” đã “đâm ra được những mầm non bằng nửa hạt gạo”. Sự chuyển đổi các không gian theo mùa, do đó, cũng tạo ra ý tưởng về sự phát triển đi lên, tạo ra niềm tin và khơi dậy niềm lạc quan tin tưởng, tạo ra ấn tượng về sự thay đổi cuộc đời mang tính chất chu kì “bĩ cực thái lai” của truyền thống tâm thức Trung Hoa. Vì thế Thuốc vẫn luôn là một trong những sáng tạo nghệ thuật tài ba của nhà văn Lỗ Tấn. Thứ thuốc mà quần chúng nghèo khổ Trung Hoa cần có đã được chỉ ra. Đấy cũng là thứ thuốc mà độc giả thu nhận được qua thông điệp nghệ thuật của nhà văn
____________
(1) Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. Nxb. Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du, 1997, tr.750.


(Theo PGS.TS. Lê Nguyên Cẩn-Khoa Ngữ Văn - Đại học Sư phạm Hà Nội)

Đọc hiểu truyện Thuốc ( Lỗ Tấn )



Đọc hiểu truyện Thuốc ( Lỗ Tấn )


I/Tìm hiểu chung
1.Tóm tắt


Một đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi. Lão Hoa Thuyên ngồi dậy, đánh diêm thắp đèn. Một cơn ho nổi lên. Bà Hoa sờ soạng dưới gối lấy ta một gói bạc đồng đưa chồng. Lão tắt đèn con, cầm đèn lồng ra đi. Lại một cơn ho nữa. Trời lạnh, tối om, hết sức vắng. Chỉ gặp vài con chó. Lão Hoa Thuyên cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và ai cho thép thần thông cải từ hoàn sinh. Lão Hoa Thuyên đi những bước thật dài. Trời sáng dần. Phía trước là ngã ba, Lão Hoa Thuyên tìm một cửa hiện, đứng dưới mái hiên, tựa lưng vào cửa. Lão giật mình khi có người hỏi. Lão đưa tay lên ngực sờ gói bạc. Bọn lính đi đi lại lại, xô nhào tới như nước thủy triều. Đám người lại xô đẩy nhau ào ào… Một người mặc áo đen, mắt sắc như hai lưỡi dao chọc thủng vào lão làm lão co rúm lại,… Hắn đưa cho lão một chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt. Hắn giật lấy gói bạc, nắn nắn rồi quay đi… Lão Hoa Thuyên sẽ mang cái bánh ấy về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sẽ sung sướng biết bao!

Lão Hoa Thuyên về đến nhà thấy quán hàng đã bày biện sạch sẽ. Thằng Thuyên đang ngồi ăn cơm. Bà Hoa từ bếp chạy ra, môi run run hỏi chồng: “Có được không?” Vào bếp, hai vợ chồng bàn bạc một hồi, bà Hoa đi ra một lát, đem về một lá sen già, bọc bánh lại nướng. Một mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà. Cậu Năm Gù đi vào quán rồi nói: “Thơm ghê nhỉ!... Rang cơm đấy à?”. Thằng Thuyên cầm lấy vật đem thui, bẻ đôi ra ăn. Hai vợ chồng bà Hoa đứng bên con. Ăn hết chiếc bánh thằng Thuyên lại ho, nằm xuống ngủ, bà Hoa lấy chiếc mền kép vá chằng chịt đắp cho con.

Quán trà đã đông khách. Cậu Năm Gù người râu hoa râm, bác cả Khang… Bác cất tiếng nói oang oang: “Đã ăn chưa? Đỡ rồi chứ?... Cam đoan thế nào cũng khỏi. Ăn còn nóng hôi hổi thế kia mà! Bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì ăn mà chẳng khỏi!”. Đám khách hỏi nhau về tên người bị chết chém, là người họ Hạ, con bà Tứ. Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống. Bác cả Khang cao hứng nói, “tớ chẳng nước mẹ gì”, cái áo nó cởi ra thì lão Nghĩa đề lao lấy mất. May nhất là ông Thuyên nhà này, thứ đến là cụ Ba đem thằng cháu ra thứ, được thưởng 25 đồng bạc trắng, chẳng mất cho ai một đồng kẽm! Cái thằng nhãi con ấy nằm trong tù rồi còn dám rủ lão đề lao làm giặc. Hắn dám vuốt râu cọp nên bị lão ta đánh cho hai bạt tai. Cái thằng khốn nạn! Thật đáng thương hại! Hắn điên thật rồi!

Tiết thanh minh năm ấy, bà Hoa đi ra nghĩa địa. Một con đường nhỏ, bên trái là mộ những người chết chém hoặc chết tù, bên phải là mộ những người nghèo. Bà Hoa bày ra trước nấm mộ mới đắp một bát cơm, bốn đĩa thức ăn khóc một hồi, đốt xong vàng giấy, ngồi bệt xuống đất ngẩn ngơ… Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc bà Hoa mới cắt ngắn, so với năm ngoái chắc là bạc nhiều lắm rồi! Lại một người đàn bà khác, tóc bạc già nửa, áo quần rách rưới, cứ đi ba bước lại dừng lại. Chợt thấy bà Hoa, xấu hổ nhưng rồi chũng đành liều đi tới trước nấm mộ bên trái con đường mòn. Cũng bày ra một bát cơm, bốn đĩa thức ăn, khóc một hồi, rồi đốt vàng… Bà ta bỗng run lên loạng choạng, mắt trợn trừng ngơ ngác. Bà Hoa vội chạy sang khẽ nói: “Bà ơi! Thôi mà, thương xót làm chi nữa! Ta về đi thôi!” Bà kia gật đầu rồi chỉ tay về một vòng hoa, hoa trắng hoa hồng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum. Bước lại gần mộ con, bà kia nói: “Hoa không có gốc, không phải dưới đất mọc lên! Ai đã đến đây?... Thế này là thế nào?”

Bà ta khóc to: “Du ơi! Oan con lắm Du ơi!... Trời còn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó thôi! Du ơi! Hồn con… ứng vào con quạ kia đến đậu vào nấm mộ con cho mẹ xem, con ơi!”

Người đến thăm viếng mộ càng đông. Hai người đàn bà uể oải thu dọn bát đĩa ra về. Một tiếng “Coa… ạ” rất to, hai bà giật mình quay lại, thì thấy con quạ xòe đôi cánh, bay thẳng về phía chân trời.

2.Xuất xứ

Truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tân Thanh niên. Nhân vật Hạ Du trong truyện, ám chỉ nữ thi sĩ Thu Cận (Du và Cận đều cùng nghĩa là Ngọc). Chỗ Thu Cận bị hành hình gần nhà bia Cổ Hiên Đình Khấu, tại nội thành Thiệu Hưng, quê hương Lỗ Tấn. Cuối phần I truyện “Thuốc”, tác giả nhắc tại tên cái nhà bia ấy, nhưng đã cắt đi một chữ: “Cổ… Đình Khấu”.

Lịch sử hiện đại Trung Quốc được mở đầu bằng phong trào Ngũ Tứ, nổ ra vào ngày 4/5/1919 mang tính chất phản đế và phản phong triệt để. Truyện “Thuốc” ra đời vào thang 5/1919, giữa cơn xoáy lịch sử của phong trào Ngũ Tứ, nên nó mang một hàm nghĩa sâu sắc.

3.Chủ đề

Truyện “Thuốc” thể hiện tình trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi kịch của người cách mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỷ 20.

II/Đọc hiểu văn bản 

1.Văn hào Lỗ Tấn (1881 - 1936) được ngợi ca là vị chủ tướng trên mặt trận văn hóa - tư tưởng, đạt được thành tựu lớn nhất trong nền văn học hiện đại Trung Quốc. Ông đã sống và viết với một tâm thế chiến đấu ngoan cường, bất khuất, coi khinh mọi kẻ thù của nhân dân. Hai vần thơ nổi tiếng của ông được truyền tụng như một châm ngôn sáng ngời:

“Quắc mắt coi khinh nghìn lực sĩ,
Cúi đầu làm ngựa chú nhi đồng”.

Nhà văn Fađêép (Nga) từng ca ngợi: “Lỗ Tấn là một danh thủ truyện ngắn thế giới… Ông đã cống hiến cho nhân loại những hình thức dân tộc không thể bắt chước được…”.

“Thuốc” là một truyện ngắn đa nghĩa như nhiều truyện ngắn khác của Lỗ Tấn. Ông sáng tác truyện “Thuốc” vào ngày 25/4/1919, đúng một năm sau “Nhật ký người điên” ra đời. Nó được đăng trên báo “Tân Thanh niên” số thang 5/1919 giữa cơn bão táp phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919) do học sinh, sinh viên Bắc Kinh phát động, mở đầu cuộc vận động “cứu vong” - cứu đất nước Trung Hoa khỏi diệt vong.

Lỗ Tấn kể chuyện vợ chồng lão Hoa Thuyên mua bánh bao tẩm máu tử tù để làm thuốc chữa bệnh lao cho con, chuyện Hạ Du làm cách mạng mà bị chêt chém… qua đó tác giả thể hiện tình trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi kịch của người cách mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc những năm đầu của thế kỷ 20.

Lỗ Tấn chia truyện làm bốn phần: 1) Lão Hoa Thuyên đi mua thuốc - bánh bao tẩm máu tử tù - đem về chữa bệnh lao cho con; 2) Vợ chồng lão Hoa nướng “thuốc” và thằng Thuyên - con trai ăn “thuốc”; 3) Bọn khách trong quán trà và bác Cả Khang (đao phủ) nói về “thuốc” và bàn về tử tù; 4) Bà Hoa và bà Tứ (mẹ tử tù) cùng đi thăm mộ con và gặp nhau trong nghĩa địa nhân ngày thanh minh.

2. Lão Hoa Thuyên đi mua “Thuốc” cho con vào một đêm mùa thu gần sáng, trăng lặn rồi. Mùa thu cũng là mùa ở Trung Quốc dưới thời Mãn Thanh, người ta đem chém tử tù. Trời tối và lạnh, vắng vẻ. Tiếng ho của người bệnh lao (thằng con trai) nổi lên. Bà Hoa sờ soạng dưới gối lấy một gói bạc đồng đưa cho chồng. Lão Hoa Thuyên cầm đèn lồng đi ra, thằng con lại nổi một cơn ho. Lão Thuyên khẽ nói với con, biết bao thương yêu: “Thuyên à! Con cứ nằm đấy!...”

Trời tối và vắng, lạnh, nhưng lão Hoa Thuyên “cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và ai cho thép thần thông cải từ hoàn sinh”. Đã mấy đời độc đinh, thằng Thuyên bị ho lao, một mối lo buồn đè nặng đã bấy nay, vì thế đêm nay, lão cầm đèn đi mua thuốc cho con, lão chứa chan hy vọng mới cảm thấy “sảng khoái” và như “trẻ lại”.

Cảnh pháp trường qua cái “trố mắt nhìn” của lão Thuyên. Có biết bao nhiêu người “kỳ dị hết sức”, cứ hai ba người “đi đi lại lại như những bóng ma!” Bọn lính với sắc phục có “miếng vải tròn màu trắng” ở vạt áo trước, vạt áo sau, có “đường viền đỏ thẫm” trên chiếc áo dấu. Cảnh pháp trường, lúc thì “tiếng chân bước ào ào”, bọn người “xô nhào tới như nước thủy triều”, lúc thì cả đám “xô đẩy nhau ào ào”. Hình như họ tranh nhau “lấy thuốc” để đem bán?

Người bán thuốc cho lão Thuyên mặc “áo quần đen ngòm” “mắt sắc như hai lưỡi dao” chọc thẳng vào lão, làm lão “co rúm” lại. Thuốc là “một chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt”. Sau khi “tiền trao cháo múc”, người bán thuộc giật lấy gói bạc, “nắn nắn” rồi quay đi, miệng càu nhàu. Lão Thuyên “run run - ngại không cầm chiếc bánh”, nhưng sau đó, tất cả tinh thần lão để hết vào cái bánh bao tẩm máu ấy, “lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sẽ sung sướng biết bao!”

Cảnh vợ chồng lão Hoa Thuyên gặp nhau “bàn bạc một hồi”, cảnh lấy lá sen già gói bánh bao tẩm máu tử tù để nướng, cảnh ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên “một mùi thơm quái lạ” tràn ngập cả quán trà rồi cậu Năm Gù đi vào quán trà hỏi: “Thơm ghê nhỉ?... Rang cơm đấy à?”, cảnh thằng Thuyên ăn “thuốc” hai bố mẹ đứng hai bên, và bà Hoa nói khẽ, an ủi con: “Ăn đi con, sẽ khỏi ngay” - tất cả đều phản ánh tình trạng mê muội của quần chúng. Họ tin tưởng một cách chắc chắn và thiêng liêng rằng, bánh bao tẩm máu tử tù ăn vào sẽ chữa khỏi bệnh lao. Với một cách viết dung dị, trầm lắng, sâu xa, hàng loạt chi tiết đưa ra đều xoay quanh chuyện mua, bán thuốc, chuyện ăn thuốc và niềm tin “thuốc thành” sẽ chữa khỏi bệnh lao, tác giả đã làm nổi bật chủ đề thứ nhất của truyện là phê phán tư tưởng mê tín, tập quán chữa bênh phản khoa học.

Buổi sáng mùa thu năm ấy, sau khi thằng Thuyên ăn “Thuốc” nằm ngủ, bà Hoa “nhẹ nhàng lấy chiếc mền kép vá chằng chịt đắp cho con” thì quán trà một lúc một đông khách. Có cậu Năm Gù, có một người “râu hoa râm”. Có lão “mặt thịt ngang phè… mặc chiếc áo vải màu huyền, không ghi khuy, dải thắt lưng cũng màu huyền quần ở ngoài, xộc xệch…”. Sắc phục ấy là dấu hiệu của những đao phủ trên pháp trường. Đó là bác Cả Khang, kẻ đã bán “thuốc” cho lão Hoa Thuyên. Bác Cả Khang sau khi tán tụng thức thuốc đặc biệt “bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì mà chẳng khỏi” đã nói về tử tù là “con nhà bà Tứ chứ còn ai? Thằng quỷ sứ!” Tử tù đã mang lại cái lợi, món hời cho bao người! May nhất là lão Thuyên đã mua được “thuốc”, ăn vào “cam đoan thế nào cũng khỏi”, thứ đến là cụ Ba đưa cháu ra đầu thú, vừa “tránh cho cả nhà mất đầu”, vừa “được thưởng 25 lạng bạc trắng xoá, một mình bỏ túi tất chẳng mất cho ai một đồng kẽm!” Lão Nghĩa đề lao “mắt đỏ như mắt cá chép” thì được cái áo của tử tù cởi ra trước lúc lên đoạn đầu đài. Còn và Cả Khang, ngoài mấy đồng bạc bán thuốc cho lão Thuyên “chẳng nước mẹ gì!”

Người ta thường nói: “Máu người không phải nước lã!” Ở đây, máu của Hạ Du, một người cách mạng tiên phong chỉ có giá trị đem lại một ít quyền lợi vật chất cho một số người! Chua xót và cay đắng hơn nữa, dưới mắt họ thì Hạ Du chỉ là “thẳng quỷ sứ!, “thằng nhãi ranh con”, “thằng nhãi con”, “thằng khốn nạn”! Với bác Cả Khang thì Hạ Du là “đáng thương hại”, với lão râu hoa râm thì “hắn điên thật rồi!”, với cậu Năm Gù thì Hạ Du đúng là một kẻ “điên thật rồi!”

Hạ Du là người cách mạng có lý tưởng chống phong kiến (triều đình Mãn Thanh), như một tín đồ tử vì đạo, anh ta đã chiến đấu vì lý tưởng “Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta”. Đó là khẩu hiệu của những nhà cách mạng Trung Quốc năm 1907 hô hào quần chúng nổi dậy chống Mãn Thanh. Các nhà nghiên cứu văn học cho biết: “Thuốc” nói chuyện trước cách mạng Tân Hợi (1911) Hạ Du nằm trong ngục, trước lúc ra pháp trường còn dám cả gan “vuốt râu cọp” tuyên truyền cách mạng cho lão Nghĩa “mắt cá chép” - dám rủ lão đề lao làm giắc nên đã bị lão ta “đánh cho hai bạt tai”. Những người như Hạ Du, Thu Cận… là những nhà cách mạng tiên phong, dũng cảm xả thân vì đại nghĩa, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Giữa đông đảo quần chúng u mê, họ chiến đấu một cách đơn độc. Chẳng ai hiểu họ, ủng hộ họ. Ngay bà mẹ Hạ Du cũng chỉ biết kêu than: “Oan con lắm Du ơi!” và nguyền rủa: “Trời còn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó thôi! Du ơi!...”. Ông chứ thì táng tận lương tâm tố cáo cháu là giặc để được thưởng 25 lạng bạc trắng, lão Cả Khang thì lấy máu tử tù Hạ Du tẩm bánh bao để bán “Thuốc”, lão Hoa Thuyên và bao người khác đã lấy máu Hạ Du để chữa bệnh… Quần chúng u mê tăm tối, bị tê liệt… Người cách mạng thì xa rời quần chúng, chiến đấu một cách đơn độc. “Thuốc” đã phê phán tình trạng ấy, thể hiện sâu sắc bi kịch của người cách mạng tiên phong. Đó chính là chủ đề thứ hai của truyện ngắn này. Ngầm một ý nhà văn muốn nêu ra: Trước thực trạng cay đắng ấy phải tìm một “vị thuốc” công hiệu nào để chữa trị, và chỉ khi nào tìm ra được vị thuốc ấy mới thay đổi được “quốc dân tình”, mới cứu được nước Trung Hoa. Phong trào Ngũ Tứ tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921. Và lịch sử đã xác nhận, chỉ có Đảng Cộng sản Trung Quốc mới tìn ra được “vị thuốc” để phục hưng đất nước.

3. Phần cuối của truyện nói về những gì đã diễn ra trên nghĩa địa vào tiết thanh minh. Một con đường nhỏ cong queo tạo nên cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa. Phía tay trái con đường là mộ những người chết chém hoặc chết tù, phía bên phải là mộ những người nghèo. Cả hai nơi môn dày khít “như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”. Trời lạnh lắm hai bà già đều ra thăm mộ. Bà Hoa bày ra trước nấm mộ mới đắp (mộ thằng Thuyên) một bát cơm, bốn đĩa thức ăn, ngồi khóc một hồi, đốt xong thếp vàng giấy rồi ngồi bệt xuống đất, ngẩn ngơ. Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc cắt ngắn đã bạc nhiều lắm… Nỗi thương con, nỗi buồn cô đơn của bà Hoa được diễn tả qua tiếng khóc, qua dáng “ngồi bệt” và cái “ngẩn ngơ” ấy. Không có bông lau mà chỉ có mớ tóc bạc rung lên theo làn gió hiu hiu thổi mà đầy ám ảnh, thê lương.

Một bà già nữa, tóc bạc, áo quần rách rưới cũng mang bát cơm, bốn đĩa thức ăn… cứ đi ba bước lại dừng lại, ngập ngừng không dám bước, sắc mặt xanh xao bỗng đỏ lên vì xấu hổ… Đốt vàng lên… bỗng chân tay “run lên” lùi lại “loạng choạng” mắt “trợn trừng trừng ngơ ngác”.

Bà Hoa bước sang bên kia con đường mòn - nơi mộ tử tù - khẽ nói với bà kia, an ủi: “Bà ơi thôi mà, thương xót làm chi nữa! Ta về đi thôi!” Cử chỉ ấy, câu nói ấy trước hết là sự đồng cảm xót thương, là sự san sẻ của hai bà mẹ già bất hạnh, một người có đứa con ho lao ăn “thuốc” bánh bao tẩm máu tử tù mà chết, một bà mẹ có đứa con “đi làm giặc” mà bị chém đầu! Tiết thanh minh này, hai bà mẹ già đã bước qua con đường mòn ngăn cách giữa hai thế giới mộ - mộ người nghèo và mộ tử tù - họ đến với nhau trong nỗi đau đớn tột cùng của lòng mẹ mất con. Phải chăng điều ấy báo hiệu một đổi thay gì mới giữa mùa xuân này? Nỗi đau của bà Tứ (mẹ Hạ Du) đã có người đồng cảm. Sự thức tỉnh đã hé lộ như những mầm non bằng nửa hạt gạo trên cây dương liễu?

Vòng hoa - hoa trắng hoa hồng - xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum, với bà mẹ Hạ Du là “Cái gì thế này?”, tại sao “Hoa không có gốc, không phải dưới đất mọc lên? Ai đã đến đây?”… Vòng hoa đã làm cho nỗi đau của bà Tứ không thể nào kể xiết, cất tiếng khóc thê thảm: “Du ơi! Oan con lắm Du ơi! Chắc con không quên được và con đau lòng lắm, phải không con? Con hiển hiện lên cho mẹ biết con ơi!”… Rõ ràng vòng hoa trên nấm mộ Hạ Du như muốn khẳng định một chân lý lịch sử và cách mạng: Trong trạng thái mê muội, tê liệt của quần chúng thuở ấy, vẫn có người nhớ đến, tiếc thương ngưỡng mộ và quyết tâm noi gương người cách mạng tiên phong đã ngã xuống vì đại nghĩa. Vòng hoa thể hiện cho xu thế cách mạng, cho niềm lạc quan đối với tiền đồ cách mạng. Vòng hoa trong truyện “Thuốc” là một dự cảm về con đường bão táp, một tia lửa hôm nay sẽ báo hiệu một đám cháy ngày mai!

Câu hỏi của bà Tứ: “Cái gì thế này?”, “thế này là thế nào?” đã tạo ra một ám ảnh khôn nguôi, khiến người đọc “không trả lời không yên” (Nguyễn Tuân). Và tiếng quạ kêu cất lên sau tiếng khóc, sau lời nguyền của bà Hoa, bà Tứ làm cho âm điệu chủ đạo của thiên truyện “Thuốc” này thêm não nũng ai oán! Phải tìm được “vị thuốc” để giảm bớt nỗi đau cho quần chúng, cho đồng loại. Muốn “cứu vong” đất nước phải đồng thời chữa bệnh cho “quốc dân tình” là như vậy!

III/Tổng kết.

1.Nghệ thuật

Truyện “Thuốc” chỉ có vài nhân vật. Câu chuyện thương tâm dồn tụ lại ở hai người mẹ già, hai đứa con xấu số. Không gian hẹp: một quán trà, một pháp trường, một bãi tha ma. Cảnh chém người một đêm thu tàn canh. Nghĩa địa “mộ dày khít, lớp này, lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ”. Tiếng mẹ khóc con thê thiết. Tiếng quạ kêu não nùng. Không gian nghệ thuật ấy tiêu biểu cho một nước Trung Hoa trì trệ, bế tắc đầu thế kỷ 20.

Thời gian nghệ thuật trong truyện “Thuốc” vận động từ mùa thu đến mùa xuân, từ lúc tử tù bị chém, thằng Thuyên ho lao rồi chết đến tiết thanh minh, trên ngôi mộ Hạ Du có vòng hoa, một thằng Thuyên và những nấm mộ khác “lác đác vài nụ hoa bé tý, trăng trắng, xanh xanh”, trên cành dương liễu đã đâm ra “những mầm non bằng nửa hạt gạo”. Đó là mầm xanh của mùa xuân hy vọng, hứa hẹn một ngày mai ấm áp hơn, như lời thơ Quách Mạt Nhược, người cùng thời và đồng hành với Lỗ Tấn:

“Dẫu vầng dương còn ở phương xa,
Trong nước biển đã nghe vang chuông sớm…”
(Kiếp tái sinh của nữ thần)

2.Tư tưởng

Trong bài “Vì sao tôi viết tiểu thuyết” Lỗ Tấn nói: “Mỗi khi chọn đề tài, tôi đều chọn những người bất hạnh trong xã hội bệnh tật, với mục đích lôi hết bệnh tật của họ ra, làm cho mọi người chú ý mà tìm cách chạy chữa…”. Có lẽ vì thế mà áng văn này đã trở thành một “vị thuốc” rất công hiệu để chạy chữa tình trạng u mê tăm tối và tê liệt tinh thần của quần chúng, phê phán sự xa rời quần chúng của những nhà cách mạng. Cuộc đời tuy còn nhiều nước mắt, nhiều bi kịch “vầng dương còn ở phương xa” nhưng “Thuốc” gợi lên nhiều hy vọng. Hình ảnh vòng hoa và hai bà mẹ cùng đi thăm mộ con đã đến với nhau qua tiếng khóc và sự an ủi, điều đó khẳng định giá trị nhân đạo của truyện ngắn này.

(Sưu tầm)

Sôlôkhốp và truyện Số phận một con người



Sôlôkhốp và truyện Số phận một con người

Tác giả


Sôlôkhốp (1905 – 1984) là nhà văn lỗi lạc của nước Nga, được giải thưởng Nobel về văn chương năm 1965. Ông cũng là một trong số những nhà văn tự học mà thành tài. Năm 1926, Sôlôkhôp lần đầu xuất hiện trên văn đàn với 2 tập truyện ngắn: “Truyện sông Đông” và “Thảo nguyên xanh”. “Đất vỡ hoang” và “Sông đông êm đềm” là 2 cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất làm rạng rỡ sự nghiệp văn chương của Sôlôkhôp, đưa tên tuổi ông vào hàng ngũ “những nhà văn xuôi lớn nhất thế kỷ 20”. Năm 1957, Sôlôkhôp viết truyện “Số phận con người” mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó, biểu dương khí phách anh hùng của người lính Xô Viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái - tất cả được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật độc đáo đầy sáng tạo, hấp dẫn vô cùng.


Tóm tắt truyện “Số phận con người”

Gần một năm sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, mùa xuân năm 1946, trên đường đi công tác, tác giả gặp Xôcôlốp và anh đã kể cho tác giả nghe về cuộc đời vô cùng gian truân và đau khổ của mình. Chiến tranh bùng nổ, anh ra trận để lại quê nhà vợ và 3 con. Sau một năm chiến đấu, hai lần anh bị thương nhẹ vào tay và chân. Tiếp đó, anh bị bắt làm tù binh, bị đày đọa suốt 2 năm trời trong các trại tập trung của phát xít Đức. Lao dịch, nhục hình, đói rét, tử thần đêm ngày đe dọa. Năm 1944, giặc bị thua to trên mặt trận Xô-Đức, bọn phát xít bắt tù binh làm lái xe. Nhân cơ hội đó, Xôcôlốp đã bắt sống một tên trung tá Đức, lái xe chạy thoát về phía Hồng quân. Lúc này, anh mới biết tin về vợ và 2 con gái anh đã bị bom giặc giết hại. Anatôli, cậu con trai giỏi toán của anh nay đã trở thành đại uý pháo binh Hồng quân. Hai cha con cùng tham dự chiến dịch công phá Beclin, sào huyệt của Hitle. Đúng ngày 9/5/1945 ngày chiến thắng, một tên thiện xạ Đức đã bắn lén giết chết Anatôli, niềm hy vọng cuối cùng của anh.

Chiến tranh kết thúc, Xôcôlốp được giải ngũ, nhưng anh không trở về Vôrônegiơ quê hương nữa. Một đồng đội bị thương đã giải ngũ có lần mời anh về nhà chơi, Xôcôlốp nhớ ra và tìm đến Uriupinxcơ. Anh xin được làm lái xe chở hàng hóa về các huyện và chở lúa mì về thành phố. Mỗi lần đưa xe về thành phố anh lại tạt vào cửa hiệu giải khát uống một li rượu lử người. Anh đã gặp bé Vania đầu tóc rối bù, áo quần rách bươm xơ mướp nhưng cặp mắt như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm. Nó ăn ngay ở hiệu giải khát, ai cho gì thì ăn nấy. Bạ đâu ngủ đó. Xôcôlốp xúc động quyết định: “Mình sẽ nhận nó làm con nuôi!” Xôcôlốp nói với bé Vania: “Là bố của con” khi nó nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?” Đưa Vania về nhà vợ chồng người bạn, Xôcôlốp tắm rửa; cắt tóc, sắm áo quần cho bé. Nhìn nó ăn xúp bắp cải, vợ người bạn lấy tạp dề che mặt khóc. Lần đầu tiên sau chiến tranh, Xôcôlốp được ngủ một giấc yên lành. Còn bé Vania rúc vào nách bố nuôi như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ. Ngày và đêm, bé Vania không chịu rời Xôcôlốp. Một chuyện rủi ro xẩy đến, Xôcôlốp bị người ta tước mất bằng lái xe. Mất việc, anh đưa bé Vania đi bộ đến Kasarư sống. Nhìn 2 bố con đi xa dần với một nỗi buồn thấm thía, chợt đứa bé quay lại nhìn nhà văn, vẫy vẫy bàn tay bé xíu hồng hồng. Như có móng sắc nhọn bóp lấy tim mình, tác giả vội quay mặt đi…


Phân tích nhân vật Xôcôlốp



Trong truyện “Số phận con người” của nhà văn Sôlôkhốp để cho thấy, nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó, biểu dương khí phách anh hùng của người lính Xô viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái” - được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.

BÀI LÀM


Hêminguây (1899-1960) văn hào Mỹ, được giải thưởng Nôbel về văn chương năm 1954 đã từng viết: “Tôi rất thích văn học Nga… Trong các nhà văn hiện đại tôi thích Sôlôkhốp”. Là nhà văn Xô Viết được giải thưởng Nobel về văn học năm 1965, Sôlôkhốp được ca ngợi là “một trong những nhà văn xuôi lớn nhất thế kỷ 20”.

Đất vỡ hoang”, “Sông Đông êm đềm”,… và “Số phận con người” đã đem đến vinh quang cho Sôlôkhốp. Truyện “Số phận con người” xuất hiện trên báo “Sự thật” vào cuối năm 1956. Hình ảnh nhà văn Xôcôlốp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con người đầy bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta cảm nhận sâu sắc nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó; biểu dương khí phách anh hùng của người lính Xô viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị, nhân ái - được thể hiện bằng một bút phát nghệ thuật điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sôlôkhốp.

Đọc “Số phận con người” ta vô cùng xúc động trước trang đời đầy nước mắt và máu của nhân vật Xôcôlốp. Năm 1941, phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cùng với hàng triệu người Xô viết cầm vũ khí đứng lên, Xôcôlốp ra trận. Anh nếm trải những gian truận, thất bại buổi đầu của Liên Xô. Hai lần bị thương vào chân và tay. Rồi anh bị giặc bắt, bị đày đọa suốt hai năm trong nhiều trại tập trung. Sống bằng xúp lõng bõng, bánh mì lẫn mạt cưa. Áo quần xơ xác, lao động khổ sai, người tù ra bọc xương. Hàng trăm tù binh bỏ mạng. Tù binh Nga bị bọn phát xít đánh bằng thanh sắt, thanh gỗ, thanh củi, đánh bằng báng súng, đấm bằng tay, đạp bằng chân vô cùng dã man. Bọn chỉ huy trại đấm vào mặt, vào mũi tù binh cho hộc máu ra; chúng gọi đó là trò “phòng bệnh cúm”. Chúng “sáng tạo” ra mọi cách cực kỳ man rợ để đánh đập bắn giết tù binh. Đêm và ngày, lúc lao động khổ sai và lúc bị nhốt sau hàng rào dây thép gai, Xôcôlốp cũng như các tù binh khác bị cái chết bủa vây, bị tử thần rình rập.

Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng ngàn thành phố, hàng vạn làng mạc bị bom đạn phát xít biến thành tro tàn. Gia đình Xôcôlốp gánh chịu bao mất mát đau thương. Vợ và 2 con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai - đại uý pháo binh Anatôli, niềm tự hào cuối cũng đã ngã xuống trong ngày chiến thắng bởi viên đạn bắn lén của một tên thiện xạ phát xít! Thế là hết! Nỗi đau khủng khiếp làm cho Xôcôlốp “như người mất hồn”. Chiến tranh kết thúc, được giải ngũ nhưng anh không muốn về lại Vôrônegiơ quê hương vì đâu còn gia đình nữa. Bé Vania cũng là hiện thân cho thảm họa chiến tranh. Cha “chết ở mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi tàu”. Bé cũng không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân thuộc “không có ai cả”. Và chỉ biết “bạ đau ngủ đó”, “ai cho gì thì ăn nấy!” Áo quần em “rách bươm xơ mướp”, “đầu tóc rối bù”; “mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma lem”…

Hình ảnh bé Vania cũng như cuộc đời Xôcôlốp được tác giả miêu tả một cách chân thật cảm động thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó. Cái giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô trong thế chiến 2 phải trả là cực kỳ khủng khiếp. Chỉ còn lại một phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó, nhiều người trên mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt. Chiến tranh đã đi qua, nhưng một năm sau Xôcôlốp cảm thấy quả tim mình, “đã rệu rã lắm rồi”, nhiều khi “tự nhiên nó nhói lên, thắt lại, và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khổ nhất do bão tố chiến tranh đem đến cho con người không chỉ là mất mát, tang thương, điêu tàn… mà còn là những vết thương lòng rỉ máu, những ám ảnh kinh hoàng còn mãi trong ký ức, cứ xiết chặt lấy tâm hồn người lính thời hậu chiến. Bé Vania vốn hoạt bát có lúc lại “lặng thinh, tư lự” có lúc lại “thở dài”. Cái áo bành tô da của bố ngày nào cứ riết lấy tâm hồn của em như một ám ảnh không nguôi! Còn Xôcôlốp thì nỗi đau như vô tận “không ở lâu mãi một chỗ được”, nỗi buồn không bao giờ nguôi, “hai bố con cứ cuốc bộ khắp nước Nga”… Hầu như đêm nào anh cũng chiêm bao thấy những người thân bị giặc giết “gặp lại vợ con sau hàng rào dây thép gai”…, “ban ngày trấn tĩnh được, không hở ta một tiếng thở dài, một lời than vãn nhưng ban đêm thì gối ướt đầm nước mắt…”. Xôcôlốp và bé Vania trở thành “côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những miền xa lạ…”

Nhân vật Xôcôlốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho khí phách anh hùng của người lính Xô viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ, một lái xe. Một gia đình ổn định, êm ấm: một vợ và ba con. Anh đã ra trận như hàng triệu công dân với ý thức “Tổ quốc hay là chết!” Hai lần bị thương vào chân và tay; vết thương lành, anh lại cầm súng đánh giặc rồi bị bắt làm tù binh. Lao động khổ sai trong mưa, nắng, tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. Áo quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt cưa, lưng bát xúp lõng bõng. Anh đã đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kiên quyết trừ khử tên phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần Muynle , chỉ huy trại tập trung. Với đôi mắt bình thản, anh nhìn thẳng vào họng súng lục tên phát xít. Tự kìm chế sự đói khát khi đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hoàng uống rượu, không chỉ uống một cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình kinh ngạc khâm phục nói:

“Mày là một thằng lính Nga chân chính. Tao cũng là lính và tao trọng những địch thủ có khí tiết. Tao sẽ không bắn mày nữa”. Tầm vóc của Xôcôlốp, của người lính Nga trong máu lửa được miêu tả một cách chân thực, hào hùng làm cho truyện “Số phận con người” mang vẻ đẹp một “tiểu anh hùng ca”.

Qua nhân vật Xôlôlốp, tác giả đã khám phá chiều sâu tính cách Nga bình dị và nhân ái. Sau chiến tranh anh vẫn nhớ hoài cái giây phút từ biệt vợ con để ra trận, anh đẩy Irina ra khi chị cứ níu lấy anh, không thả… Bình dị trước biến cố trọng đại khi lịch sử đưa số phận anh lên “điểm tựa” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt hơn một năm rồi, mà lòng Xôcôlốp mãi không nguôi đau. Anh đã tìm đến rượu, “uống một ly rượu lử người”, anh đã “quá say mê cái món nguy hại ấy!”

Đang sống âm thầm trong bị kịch, anh tưởng không có lối thoát. Nhưng rồi tình cảm người cha, - tình thương đồng loại đã thức dậy, làm cho vết thương lòng rỉ máu bấy nay, như được mọc lên một lớp da non. Gặp bé Vania “đầu tóc rối bù”, “rách bươm xơ mướp”, sống bơ vơ nơi hiệu giải khát, bạ đâu ngủ đó… ai cho gì thì ăn mấy”, nhất là khi nhìn thấy cặp mắt của em “như những ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”, Xôcôlốp thấy “thích nó” và “nhớ nó”, cố cho xe chạy nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã quyết định: “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ được! Mình sẽ nhận nó làm con!” Một quyết định đầy nhân ái. Anh đã cứu bé Vania, và anh đã tự cứu mình! Như có một phép thần biến cải: “Ngay lúc đó tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng sáng lên!” Câu nói khẽ của Xôcôlốp: “Là bố của con” khi nghe bé Vania nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?” tưởng là bình dị nhưng đầy nước mắt, chứa đựng cả một biển tình thương mênh mông! Trước những cái hôn vào má, vào môi, vào trán, trước những cử chỉ “yêu thương bố…” của bé Vania Xôcôlốp vô cùng xúc động: “Mắt tôi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy…”

Xôcôlốp đã nhận bé Vania làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi cắt tóc, may áo quần mới, săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến tranh được dịu lại. Giấc ngủ được yên lành hơn: “Lần đầu tiên, sau nhiều năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Còn bé Vania thì rúc vào nách bố nuôi “như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ…” Hạnh phúc là san sẻ. Xôcôlốp lòng vui không lời nào tả xiết, đêm đêm thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Vania ngủ ngon lành. Đời anh đã có một sự đổi thay kì diệu: “Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. Vết thương lòng đâu dễ nguôi? Vì thế mà Xôcôlốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi khắp nước Nga. Chỉ đến một lúc nào đó, bé Vania lớn lên vào học một trường ổn định thì Xôcôlốp “mới có thể ở yên một chỗ”. Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của người bố đối với đứa con.

Cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi cút” và câu chuyện đau lòng của họ đã để lại trong lòng tác giả bao nỗi buồn thấm thía, nhưng ông vẫn tin vào dũng khí và lòng nhân ái của người Nga, vẫn tin vào tương lai, cho dù bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới những miền xa lạ. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi”.

Truyện “Số phận con người” có kết cấu “truyện lồng trong truyện” đã tô đậm những đau khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Xôcôlốp, khắc họa đậm nét tính cách và tâm hồn Nga, đem đến cho người đọc nhiều xúc động thấm thía về số phận con người trong chiến tranh và thời hậu chiến.

Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực, tác giả đã mô tả mặt thật của chiến tranh , ca ngợi người lao động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong máu lửa, người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau chiến tranh. Qua nhân vật Xôcôlốp, người đọc cảm nhận được những ý tưởng sâu sắc mà Sôlôkhốp gửi gắm qua kiệt tác này: Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thử thách chiến tranh; với lòng nhân ái có thể làm dịu bớt nỗi đau mà chiến tranh gieo rắc, để lại. Đoạn trữ tình ngoại đề làm cho cảm hứng nhân đạo thêm lung linh chói sáng.

Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh. Hình ảnh Xôcôlốp rất gần gũi với mỗi chúng ta. Nhân vật này rất sống, rất đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được mọi người yêu mến, cảm phục.

ST

Tác phẩm "Thuốc" của Lỗ Tấn



1- Lỗ Tấn ( 1881-1936 ) tên thật là Chu Thụ Nhân , quê ở phủ Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc . Năm 13 tuổi , chứng kiến cảnh người cha lâm bệnh mà chết vì không có thuốc , Lỗ Tấn ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc,để chữa bệnh cho những người nghèo như cha mình .

- Tuổi trẻ Lỗ Tấn nhiều lần đổi nghề để tìm con đường cống hiến cho dân tộc : nghề hàng hải , khai mỏ rồi chuyển sang nghề y . Đang học nghành y ở Nhật , một lần xem phim ông thấy những người Trung Quốc khoẻ mạnh hớn hở đi xem quân Nhật chém một người Trung Quốc chống Nhật . Ông giật mình nhận ra rằng : Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần . Và thế là ông chuyển sang làm văn nghệ để phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân , lưu ý mọi người tìm cách chạy chữa . Con đường gian nan chọn nghề của Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn của lịch sử Trung Hoa thời cận hiện đại vừa nói lên tâm huyết của Lỗ Tấn với dân tộc.

Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc đầu thế kỉ XX : “Trước Lỗ Tấn , chưa hề có Lỗ Tấn , sau Lỗ Tấn , có vô vàn Lỗ Tấn” (Quách Mạc Nhược ). Ông được tôn vinh là linh hồn dân tộc . Ông chuyên vạch trần những thói hư tật xấu của nhân dân để mọi người tìm cách chạy chữa , tự phấn đấu vươn lên , tự cường dân tộc . Tác phẩm chính của Lỗ Tấn là AQ chính truyện , Cố hương…

2- Tác phẩm:

a-Hoàn cảnh ra đời : Truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn viết năm 1919 , đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ Tứ ( Phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ của học sinh , sinh viên Bắc Kinh ) bùng nổ.

b-Tóm tắt tác phẩm:

Một đêm mùa thu gần về sáng , Lão Hoa đem số tiền vợ chồng dành dụm được ra pháp trường , gặp đao phủ mua một cái bánh tẩm máu tử tù về cho thằng Thuyên ,con trai lão ăn để chữa bệnh lao.(Mua thuốc , uống thuốc )(người kể chuyện là lão Hoa)

Trời sáng , quán trà của vợ chồng lão Hoa đông khách dần , mọi người bàn tán về cái chết của tử tù . Tử tù là Hạ Du , một người cách mạng bị xử chém vì chống Nhật . Mọi người cho Hạ Du là thằng điên , thằng khốn nạn và khen Cụ Ba là khôn vì đã tố cáo cháu mình để lấy tiền thưởng . Họ cũng cho vợ chồng lão Hoa là may vì tìm được máu để tẩm bánh bao làm thuốc (bàn về thuốc).(người kể chuyện biết tuốt)

Tiết thanh minh vào mùa xuân năm sau , bà Hoa đi thăm mộ con ( thằng Thuyên vẫn chết vì bệnh lao dù đã ăn bánh bao tẩm máu người). Bà gặp bà mẹ của Hạ Du .Mẹ Hạ Du lúc đầu còn ngại ngùng , nhưng sau đó bà Hoa đã bước qua ranh giới phân chia khu nghĩa địa dành cho dành cho người nghèo sang khu dành cho ngưòi chết chém để an ủi mẹ Hạ Du . Cả hai bà mẹ đều hết sức kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa (hậu quả của thuốc). (người kể chuyện là bà Hoa)

II – Phân tích :

1-Ý nghĩa nhan đề “Thuốc” và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người:

Nhan đề thiên truyện là Thuốc (nguyên văn là Dược) . Thuốc ở đây chính là chiếc bánh bao tẩm máu người mà lão Hoa đã mua về cho thằng Thuyên ăn để chữa bệnh lao.Nhan đề này có nhiều nghĩa .

-Tầng nghĩa thứ nhất của Thuốc là nghĩa tường minh , chỉ phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao tẩm máu người . Đây là một phương thuốc mê tín lạc hậu tương tự như hai vị thuốc mà ông thầy lang đã bốc cho cho bố Lỗ Tấn để chữa bệnh phù thủng là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực , con cái dẫn đến cái chết của ông cụ.

-Tầng nghĩa thứ hai của Thuốc là nghĩa hàm ẩn , đó là phương thuốc để chữa bệnh tinh thần : căn bệnh gia trưởng , căn bệnh u mê lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc . Bố mẹ thằng Thuyên vì lạc hậu và gia trưởng đã áp đặt cho nó một phương thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu người dẫn đến cái chết của nó . Rồi tất cả đám người trong quán trà cũng sai lầm như vậy. Chiếc bánh bao tẩm máu vô hại kia đã trở thành một thứ thuốc độc vì người ta quá tin vào nó mà không lo tìm một thứ thuốc khác .Người dân Trung Quốc phải tỉnh giấc , không được “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.

-Tầng nghĩa thứ ba của Thuốc , của chiếc bánh bao tẩm máu người là phương thuốc nhằm chữa căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính trị của người dân Trung Quốc và căn bệnh xa rời quần chúng của người cách mạng Trung Quốc thời bấy giờ . Máu để tẩm chiếc bánh bao là dòng máu người chiến sĩ cánh mạng Hạ Du đã đổ xuống để giải phóng cho nhân dân . Thế mà nhân dân lại u mê cho anh là làm giặc , là thằng điên và mua máu anh để tẩm bánh bánh bao. Còn Hạ Du làm cách mạng cứu nước ,cứu dân mà lại quá xa rời quần chúng để nhân dân không hiểu anh đã đành mà mẹ anh cũng không hiểu (đỏ mặt xấu hổ khi thăm mộ con gặp bà Hoa) còn chú anh thì tố cáo cháu để lấy tiền thưởng.

Tóm lại: Nhan đề truyện và hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người đã thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm: Lỗ Tấn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại : nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt” còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”

2- Các nhân vật:

a-Hình ảnh đám đông quần chúng:
-Buổi sáng sớm, ở pháp trường , lão Hoa đi mua bánh bao tẩm máu tử tù về chữa bệnh cho con thì bị một đám đông xô đẩy nhau ào ào,chen bật lão suýt ngã.Đó là những người đi xem hành hình nhà cách mạng Hạ Du .Đám đông này khiến ta liên tưởng đến đám đông đi xem hành hình một người Trung Quốc chống Nhật khiến Lỗ Tấn đi đến quyết định : Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân.

-Khi trời sáng hẳn, ở quán trà đã đông khách của lão Hoa , Cậu Năm Gù ,Cả Khang ,người râu hoa râm…cùng bàn tán về cái chết của Hạ Du với thái độ miệt thị. Họ cho anh là cái “thằng khốn nạn”, “hắn điên thật rồi”.Và họ cho rằng trong cái chết của Hạ Du có hai người gặp may . May nhất là Cụ Ba nhờ tố cáo cháu mình nên được thưởng một số tiền lớn mà gia đình khỏi bị liên luỵ, còn lão Hoa thì có máu Hạ Du để chấm bánh bao làm thuốc chữa bệnh cho thằng Thuyên.

Tóm lại, qua hai sự việc trên,và bằng ngôn ngữ của người kể chuyện , ta thấy đám đông quần chúng thật là mê muội. Sự hiểu biết và thái độ của họ về những vấn đề của đất nước,về bệnh tật ,về cuộc đời còn quá hạn chế.Nói như Lỗ Tấn thì họ đang “ngủ quên trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ .Phải làm thế nào đó để thức tỉnh họ.Ta cũng thấy nhân vật Hạ Du là một người yêu nước nhưng anh cũng thật cô đơn .

b-Nhân vật Hạ Du:

Nhân vật Hạ Du không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm mà được giới thiệu thông qua các nhân vật khác và qua thái độ của người kể chuyện .

Hạ Du là một người yêu nước , một nhà cách mạng tiên phong , dũng cảm xả thân vì nghĩa lớn.

Nhưng anh rất cô đơn ,không ai hiểu anh kể cả mẹ anh .Anh đã đổ máu vì quần chúng thế mà họ lại lấy máu anh để tẩm bánh bao chữa bệnh lao.

Hạ Du chính là hình ảnh tượng trưng của cuộc cách mạng Tân Hợi, một cuộc cách mạng góp phần đánh đổ chế độ phong kiến Trung Quốc nhưng lại xa rời quần chúng nên thất bại.Qua hình tượng Hạ Du ,Lỗ Tấn muốn bày tỏ lòng kính trọng với cuộc cách mạng này.

3-Cảnh hai bà mẹ đi thăm mộ con:

-Thời gian nghệ thuật của truyện tiến triển từ mùa thu Hạ Du bị hành hình đến mùa xuân trong tiết thanh minh năm sau lúc hai bà mẹ đi thăm mộ con.Cái chết của hai người con cũng như chiếc lá rời cành để tích nhựa cho một mùa xuân hi vọng. .Thời gian nghệ thuật đã thể hiện mạch suy tư lạc quan của tác giả.

-Nghĩa địa của làng mộ dày khít như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ ,có một con đường mòn ở giữa chia làm hai:Nghĩa địa người chết chém phía bên trái nghĩa địa người nghèo phía bên phải .Con đường mòn là biểu tượng cho một tập quán xấu đã trở thành thói quen.Hai bà mẹ đã bước qua con đường mòn để đến gặp nhau vì đồng cảm ở tình thương con sâu sắc.

-Cả hai bà mẹ cùng rất kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa : “hoa trắng hoa hồng nằm khoanh trên nấm mộ khum khum”.Bà mẹ Hạ Du cứ lẩm bẩm câu hỏi “Thế này là thế nào?”.Câu hỏi vừa hàm chứa sự sửng sốt ,vừa ẩn giấu niềm vui vì có người đã hiểu con mình .Đồng thời đã là câu hỏi thì đòi hỏi có câu trả lời. Việc làm của Hạ Du đã khiến mọi người phải suy nghĩ một cách nghiêm túc.Với vòng hoa, Lỗ Tấn đã bày tỏ sự trân trọng và tiếc thương đối với người chiến sĩ cách mạng tiên phong.

2- Đặc sắc nghệ thuật:

-Truyện có lối viết cô đọng, súc tích ,giàu hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng (chiếc bánh bao tẩm máu,vòng hoa,con đường mòn…)

-Cách xây dựng nhân vật cũng rất đặc biệt: không đặt nhân vật cách mạng vào vị trí chủ yếu mà đặt ở tuyến ngầm phía sau nhân vật đám đông để khắc hoạ chủ đề thức tỉnh quần chúng của truyện.

-Cách kể chuyện theo ngôi thứ ba truyền thống nhưng nhiều đoạn đã chuyển điểm nhìn trần thuật sang nhân vật làm cho truyện sinh động và giàu chất trữ tình hơn.

Sưu tầm

Phân tích vẻ đẹp lãng mạn – trữ tình trong “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu

Phân tích vẻ đẹp lãng mạn – trữ tình trong “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu.

* Bài làm
I. “Mảnh trăng cuối rừng” là truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Minh Châu trong những năm chống Mỹ. Truyện khá tiêu biểu cho những đặc điểm bút pháp của nhà văn trong giai đoạn trước 1975 và cũng mang những đặc điểm chung của văn học ta giai đoạn ấy. Truyện ngắn này đã được đưa vào nhiều tuyển tập truyện ngắn Việt Nam, đã được nhà nghiên cứu N. I. Nicolin (Nga) giới thiệu trong bài “Cuộc chiến tranh giải phóng và truyện ngắn Việt Nam hiện đại” (Tạp chí các dân tộc Á-Phi, tháng 4 năm 1973)

II.
1/ Phân tích truyện ngắn này cần lưu ý đến tình huống truyện, đây là một thành công của nghệ thuật truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng”
Truyện kể về một cuộc gặp gỡ của một người lái xe quân sự với một cô công nhân giao thông đi nhờ xe anh trên đoạn đường chiến tranh. Điều ngẫu nhiên lý thú là cô gái ấy chính là người đã đính ước vắng mặt với anh (qua sự giới thiệu của người chị gái của anh ở cùng đội với cô). Hai người đang đi đến chỗ hẹn để gặp nhau. Nhưng vốn họ chưa một lần gặp nhau, nên qua câu chuyện, người lái xe chỉ có thể phỏng đoán rằng cô gái là người đã hẹn ước với mình. Suốt dọc đường, trải qua nhiều khó khăn nguy hiểm. Cô gái đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp, làm thay đổi sự nhìn nhận về cô của người lái xe. Họ không gặp được nhau ở chỗ hẹn vì những trắc trở của chiến tranh, nhưng cô gái đã để lại những tình cảm sâu sắc và niềm hạnh phúc cho chàng trai.
Tình huống truyện mang tính ngẫu nhiên, nhưng sự sắp đặt của tác giả khá tự nhiên, không giả tạo. Cái ngẫu nhiên ở đây cũng mang tính quy luật: trong chiến tranh từng có biết bao tình huống lạ lùng, những cuộc gặp gỡ bất ngờ. Hơn nữa, các tình tiết xếp đặt của tác giả đều khá hợp lý (về nguyên do của những cuộc gặp gỡ: bức thư của người chị, chuyến đi công tác kết hợp việc riêng của anh lái xe). Tác giả cũng giữ cho người đọc và người kể chuyện ở trong tâm trạng phấp phỏng, dự đoán không biết rõ ràng cô gái đi nhờ xe có phải là người đã đính ước không. Có một khả năng diễn biến câu chuyện có thể phá vỡ sự “mơ hồ” ấy, nhưng nó đã được loại bỏ đúng với quy luật tâm lý (người lái xe chỉ cần hỏi về chị Tính là có thể rõ mọi chuyện, nhưng anh không dám và cũng không muốn hỏi điều đó, chưa muốn để cô gái biết rõ về mình). Chính tình trạng có vẻ mơ hồ không rõ ràng ấy lại là cái hấp dẫn riêng của câu chuyện thêm nữa, trong hoàn cảnh ấy, nữ nhân vật chính có thể bộc lộ tự nhiên về mình.

2/ Phân tích nhân vật trung tâm: Cô Nguyệt, nhân vật này được miêu tả qua sự quan sát, nhận xét và lời kể của nhân vật người lái xe (người kể chuyện), và hiện ra theo hành trình của chuyến đi. Vì vậy phân tích nhân vật Nguyệt nên theo trình tự cốt truyện và trong mối quan hệ với cách nhìn nhận của nhân vật kể chuyện.
Đầu tiên, cô gái xuất hiện trong xe để đi nhờ đặt anh lái xe vào tình thế “việc đã rồi” (người phụ lái đã nhận cho cô gái đi nhờ). Người lái xe đã hình dung ra một cảnh tượng quen thuộc với một thái độ không mấy thiện cảm: “một bên là cái vẻ nũng nịu của một cô nàng ôm chiếc nón trắng đứng sát cửa xe, một bên là những câu hỏi ỡm ờ của “anh tài phụ”… đang ngồi vắt vẻo trong buồng lái…”. Tiếp đó, cô gái xuất hiện qua những lời đối thoại đã khiến người lái xe “phát hoảng lên” “vì cái cách con gái ăn nói đối đáp bạo dạn nhường ấy”, nhưng anh vẫn nhận ra “tiếng nói trong lắm và rất bình tĩnh, cứng cỏi nữa là khác”.
Đến đây, mạch truyện chính tạm dừng lại để tác giả kể câu chuyện của người lái xe với một cô công nhân đã tự nguyện ước hẹn với anh. Mạch truyện này gợi cho người đọc nghĩ đến sự trùng hợp của hai câu chuyện tạo ra sự chú ý, phỏng đoán về cô gái đi nhờ xe. Theo từng chặng đường của cuộc hành trình, cô gái dần dần bộc lộ những nét phẩm chất tính cách cao đẹp. Cô gái hiện ra với vẻ đẹp giản dị và mát mẻ “như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ, khác hẳn với nhiều cô gái công trường thường cô nào cũng thấp và đẫy đà”, đã gây được sự chú ý với nhiều thiện cảm của người lái xe. Khi biết tên cô là Nguyệt, người đọc (và nhân vật kể truyện) liên tưởng đến người con gái đã ước hẹn với anh lái xe. Nhưng tác giả đã dùng một chi tiết tạo ra sự mơ hồ không thể khẳng định, để người đọc tiếp tục phỏng đoán và chờ đợi giải đáp rõ ràng (chi tiết có ba cô Nguyệt ở trong đội công nhânm trong đó một cô vừa hy sinh). Từ đây, thái độ của người lái xe với Nguyệt đã chuyển biến rõ rệt.
Cần chú ý là từ đây, xuất hiện hình tượng ánh trăng trên con đường rừng đêm như sóng đôi với hình ảnh cô Nguyệt: “Từ đầu hôm, tôi vẫn đi giữa đêm trăng mà không biết”, “Xe tôi chạy trong lớp sương bồng bềnh. Mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như mảnh bạc. Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăng”, “Trăng sáng soi thẳng vào khuôn mặt Nguyệt làm cho khuôn mặt tươi mát ngời lên và đẹp lạ thường”… có thể nói ánh trăng như một phần của hình ảnh cô Nguyệt làm nhân vật này mang một vẻ đẹp vừa tươi mát, dịu dàng vừa kì ảo, lung linh.
Ở phần sau của truyện, khi chiếc xe gặp nhiều thử thách trên đường (đường đi ngày càng xấu, đen tối, qua ngầm, máy bay địch ném bom tọa độ) thì nhân vật Nguyệt càng bộc lộ phẩm chất và tính cách cao đẹp. Cô chủ động, bình tĩnh, tự tin và dày dạn kinh nghiệm xử lý các tình huống khó khăn, quên mình để cứu xe, giành phần nguy hiểm về mình, nhường chỗ an toàn hơn cho anh lái xe. Trong ánh chớp của lửa của đạn bom, hình ảnh Nguyệt hiện ra thật rạng rỡ, cao cả. Ở phần kết thúc truyện, khi người lái xe biết chắc chắn cô gái đi nhờ xe chính là người con gái đã đính ước với mình thì hình ảnh Nguyệt càng đẹp hơn trong một nét phẩm chất: tình yêu thuỷ chung và niềm tin trong sáng vào cuộc sống, khiến người kể chuyện xúc động đến ngỡ ngàng: “Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không hề dứt, không thể nào tàn phá nổi ư?”.
Nhân vật Nguyệt đang xây dựng theo cách ngày càng bộc lộ những nét phẩm chất cao đẹp và cuối cùng hiện ra trong vẻ đẹp toàn vẹn, cùng với quá trình ấy sự biến chuyển trong thái độ tình cảm của nhân vật kể chuyện về cô.

3/ Chất trữ tình và màu sắc lãng mạn là đặc điểm nổi bật của truyện ngắn này. Đó vừa là một ưu điểm đồng thời cũng là một nhược điểm của truyện. Chủ đề tình yêu chung thuỷ hòa nhập với chủ đề về chiến công anh hùng. Các nhân vật đều bộc lộ những phẩm chất cao quý, những suy nghĩ trong sáng, niềm tin vào cuộc sống, những phẩm chất mang tính lý tưởng. Nhà nghiên cứu văn học N.I.Nicolin đã có nhận xét về truyện ngắn này: “Nhà văn thời ấy đã khá triệt để trong việc thi vị hóa nhân vật. Đây vừa là chỗ mạnh của anh vừa là chỗ yếu: niềm tin vào chất bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, của cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ anh đã “tắm rửa sạch sẽ” các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng”. (Lời bạ tập truyện Người đàn bà trong chuyến tàu tốc hành dịch sang tiếng Nga – NXB Cầu vồng, M.1987).
Chất trữ tình cũng bộc lộ trong những bức tranh thiên nhiên, đặc biệt là hình tượng ánh trăng mang vẻ đẹp lãng mạn được trở đi trở lại như một nét chủ đạo tạo ra một màu sắc riêng cho không gian của câu chuyện mang vẻ huyền ảo, trong đó các nhân vật hiện ra với vẻ đẹp hoàn thiện. Hình tượng ánh trăng như một mô típ chủ đạo, có quan hệ mật thiết với nhân vật chính và tên của nhân vật (Nguyệt ) từ đó chúng ta hiểu được ý nghĩa hàm ẩn của tên tác phẩm: Mảnh trăng cuối rừng

ST