Jul 7, 2012

Đặc điểm lời người kể chuyện trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa"



ĐẶC ĐIỂM LỜI NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
(Xét từ góc độ phong cách học)

Bài viết liên quan
+++++++++++

A/Mở đầu:

Trong thời kì văn học sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu (1930- 1989) không phải là nhà văn đổi mới đầu tiên nhưng lại là một trong “những nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất”. Hướng đổi mới trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thể hiện rõ rệt trên tất cả các phương diện. Về nội dung, Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm của mình đã nới rộng phạm vi hiện thực, bổ sung vào hiện thực quen biết những mảng còn chưa được nói đến hoặc còn né tránh trong văn học thời kì trước đó. Chẳng hạn như tính chất bi kịch và mặt trái của chiến tranh đối với số phận con người, phát hiện về cuộc sống với biết bao nghịch lí, biết bao ngẫu nhiên bất ngờ, những phức tạp, bí ẩn của con người trong cuộc sống thường nhật… Về nghệ thuật, tính đơn giọng, độc thoại đã bị phá vỡ, thay vào đó là tính đa thanh, đối thoại. Lời người kể chuyện dù khách quan hay chủ quan đều không phải là cái nhìn thuần nhất. Tính trữ tình- triết luận của lời kể gắn với kiểu nhân vật tự ý thức…

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu, thể hiện rõ nét những đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 nói chung và của Nguyễn Minh Châu nói riêng. Tác phẩm là những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và con người. Góp phần đưa thông điệp của nhà văn đến với độc giả một cách tự nhiên, bên cạnh việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống thì đặc điểm lời người kể chuyện được quy định bởi ngôi kể, điểm nhìn cũng có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, việc tìm hiểu đặc điểm lời người kể chuyện trong tác phẩm này ở các tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy ở trường THPT còn sơ lược. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn có thể vận dụng vào công việc giảng dạy của bản thân sau này.

B/Nội dung:

I/Những vấn đề lí thuyết về lời nói nghệ thuật

1.Phong cách học và phong cách học lời nói


Phong cách trong phạm vi ngôn ngữ học theo nghĩa phổ biến nhất chính là đặc trưng của sự lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Như vậy, khái niệm phong cách bao hàm trong nó cả phong cách ngôn ngữ và phong cách lời nói. Khái niệm “phong cách” của phong cách học cũng không hoàn toàn biệt với khái niệm phong cách của nghiên cứu văn học mà có mối liên quan nhất định. Nó bao hàm vấn đề đặc trưng của sự lựa chọn, tổ chức hình thức ngôn từ của văn bản nghệ thuật

“Phong cách học là khoa học nghiên cứu đặc trưng phong cách của hệ thống các phương tiện ngôn từ và giá trị của các kiểu lựa chọn, kết hợp những phương tiện này trong các hoàn cảnh giao tiếp nhất định” (4, 401)

Phong cách học lời nói là một phạm trù quan trọng của phong cách học. Theo PGS. TS Nguyễn Thái Hòa, “phong cách lời nói là phong cách học lấy lời nói làm đối tượng nghiên cứu của mình, trong đó kể cả các văn bản và văn bản nghệ thuật” (2, 184). Là một bộ phận của phong cách học, phong cách học lời nói không chỉ nghiên cứu lời nói- ngôn ngữ sử dụng trong giao tiếp hàng ngày mà còn nghiên cứu ngôn ngữ viết trong văn bản nói chung, văn bản nghệ thuật nói riêng trong tính đối thoại của nó.

2.Lời nói nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật

Theo TS Nguyễn Thị Ngân Hoa trong cuốn Nhập môn ngôn ngữ học thì: “Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương . Trong một tác phẩm văn học cụ thể, ngôn ngữ nghệ thuật được tổ chức theo mục đích thẩm mĩ của chủ thể, xuất hiện trong những hình thức cấu trúc riêng biệt, cụ thể. Ngôn ngữ được vận dụng trong tác phẩm có tính cá thể hóa cao độ, bao gồm nhiều thành phần, kiểu, dạng phụ thuộc vào các nhân tố: chủ thể, người kể, nhân vật, điểm nhìn, giọng điệu….Vì vậy, khi đề cập đến các thành phần trong cấu trúc ngôn ngữ của một văn bản cụ thể, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, thi pháp học sử dụng khái niệm “lời nói”: lời người kể, lời nhân vật, lời đối thoại, lời độc thoại, lời trực tiếp, lời gián tiếp, lời nửa trực tiếp…” (4, 406-407).

3.Các thành phần của lời nói nghệ thuật trong văn xuôi tự sự; đặc điểm lời người kể chuyện:

3.1.Các kiểu và các dạng thức của lời nói nghệ thuật được phân loại chủ yếu theo hai tiêu chí: kết cấu và chức năng. Theo tiêu chí chức năng, lời nói nghệ thuật trong văn xuôi tự sự bao gồm: lời người kể chuyện, lời nhân vật và các kiểu lời trung gian

3.2.Lời người kể chuyện, xét về chức năng tổ chức cốt truyện “là nhân tố cơ bản có chức năng liên kết toàn bộ các kiểu lời nói, các cấu trúc lời nói khác nhau trong tác phẩm” (1, 192), tạo nên quá trình hình thành và phát triển của cốt truyện, đảm bảo cho các biến cố trong tác phẩm diễn ra. Qua đó bộc lộ quan điểm, cách đánh giá của nhà văn về con người và hiện thực được nói tới. Do đó lời kể luôn xuất phát từ những điểm nhìn nhất định, gắn với vấn đề vai kể, giọng kể… Trong văn xuôi tự sự điểm nhìn có khi được di chuyển, vai kể, giọng kể cũng không thuần nhất.

Xét về chức năng xây dựng hình tượng, có thể phân loại lời người kể thành lời kể/ lời trần thuật, lời miêu tả, lời trữ tình (lời bình luận trực tiếp).

Lời người kể chuyện nếu không nhất trí với khuynh hướng yêu ghét của tác phẩm, tạo thành người tràn thuật không đáng tin cậy. Ngược lại, nếu lời của người trần thuật nhất trí với nhân vật, với tác giả hàm ẩn trong tác phẩm thì người trân thật là đáng tin cậy.

4.Mối quan hệ giữa các thành phần của lời nói nghệ thuật với điểm nhìn, giọng điệu trong văn xuôi tự sự:

Các thành phần của lời nói nghệ thuật lien quan mật thiết đến điểm nhìn, giọng điệu, là cơ sở để nhận diện điểm nhìn, giọng điêu. Ngược lại, chính cách lựa chon điểm nhìn và ý đồ thể hiện giọng điệu đã quy định cấu trúc lời nói nghệ thuật trong tác phẩm.

II/Đặc điểm lời người kể chuyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.

1.Người kể, vai kể


Trong Chiếc thuyền ngoài xa người kể chuyện thuộc ngôi thứ nhất-xưng tôi, đồng thời là nhân vật chính của truyện. Người kể chuyện xuất hiện với tư cách một nghệ sĩ nhiếp ảnh, ngoài ra còn với tư cách “một người lính giải phóng từng mười năm cầm súng”.

Với tư cách người nghệ si nhiếp ảnh, người kể chuyện đã kể lại câu chuyện về chuyến đi công tác của mình: Được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp ảnh bổ sung vào bộ lịch một cảnh biển buổi sáng có sương, anh đã đến một vùng biển miền Trung, nơi phong cảnh thật là thơ mộng, còn sương mù vào tháng bảy. Tại đây, sau nhiều ngày phục kích, anh ngẫu nhiên gặp được một cảnh trời cho: “ …trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Trước vẻ đẹp ấy người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Trong khoảnh khắc đó, anh “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng ngay sau cái “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại” anh đã chứng kiến một cảnh hoàn toàn đối lập với vẻ đẹp của chiếc thuyền khi còn ở ngoài xa. Bước ra từ chính chiếc thuyền ấy là hai người, một đàn ông và một đàn bà. Sau khi đi đến chiếc xe rà phá mìn trên bãi cát, người đàn ông “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: Chúng mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.Còn người đàn bà nhẫn nhục cam chịu, không hề kêu một tiếng, cũng không tìm cách trốn chạy. Tất cả mọi việc khiến “tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Tiếp sau đó là cảnh đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh bố. Lão đàn ông ‘dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Người đàn bà sau khi có những cử chỉ như van xin đứa con cũng đuổi theo gã đàn ông, trở lại thuyền. Phía sau họ, “tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng” với ánh mắt ngơ ngác. “Như trong câu chuyện cổ tích đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”.

Lần thứ hai chứng kiến cảnh gã chồng vũ phu hành hạ người đàn bà, dường như bản chất người lính từng chiến đấu vì chính nghĩa đã khiến anh không thể làm ngơ, không thể đứng ngoài với thái độ bàng quan trước những hành động phi nhân tính, người kể chuyện đã xông vào can thiệp: “tôi nện hắn (…) bằng bàn tay rắn chắc của người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng”.

Khi ở tòa án, người kể chuyện tiếp tục bị bất ngờ bởi những nghịch lí: người đàn bà chấp nhận chịu đựng những trận đòn man rợ chứ nhất định không chiu bỏ gã chồng vũ phu: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Câu nói của người đàn bà khiến người kể chuyện “cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”.Có lẽ với cái nhìn vốn chỉ quen nhìn thấy những nét thơ mộng của cuộc sống, người nghệ sĩ đã không thể hiểu và không thể chấp nhận được cách xử sự kì lạ của người đàn bà. Sự đơn giản trong cái nhìn của “tôi” còn thể hiện qua việc anh hỏi người đàn bà: “Lão ta hồi trước bảy nhăm có đi lính ngụy không?” để tìm nguyên do của những hành động dã man của gã chồng vũ phu.

Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà do chính chị ta kể ở tòa án mà người kể chuyện vừa là người chứng kiến (và kể lại) vừa là người trực tiếp tham gia vào cuộc đối thoại với chị ta đã dần dần cho anh câu trả lời về những điều nghịch lí mà anh đã chứng kiến. Lão chồng vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm” nhưng đã trở nên độc ác là vì khổ quá. Còn người đàn bà lạy van những người đại diện công lí “đừng bắt con bỏ nó” là vì: “…đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dười chục đứa. Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất được”.Câu nói giản di, chân chất của người đàn bà đã có tác động sâu xa tới nhận thức của chánh án Đẩu và cũng là nhận thức của người kể chuyện: “một cái gì vừa vỡ ra trong đầu vị bao công của cái phố huyện vùng biển” thật ra cũng là “một cái gì vừa vỡ ra trong đầu” người nghệ sĩ. Trước đó người kể chuyện “tin là nếu chiếc Prati-ca trung thành với tôi thì phen này tôi có thể đánh ngã bất kì một bức ảnh mô tả phong cảnh biển nên thơ nào từ trước”- tức là hoàn toàn tin vào sự cảm nhận của mình về vẻ đẹp của cuộc sống. Nhưng sau khi chứng kiến tất cả những gì liên quan đến chiếc thuyền ngoài xa ấy, sau khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện, anh không còn giữ cái nhìn ban đầu. Hôm đó anh đã xách máy ảnh đi lang thang trên bãi biển đến khuya và sau này, mỗi khi nhìn lại bức ảnh, anh luôn có cảm giác: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vần thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”

Như vậy, trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, vai kể chính là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Người kể không chỉ kể lại những điều mắt thấy tai nghe mà còn bày tỏ những cảm xúc chủ quan, những suy nghiệm về nghệ thuật, về con người và cuộc sống con người, về mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Trong truyện, vai kể có khi được chuyển sang nhân vật khác (người đàn bà) và đi cùng với nó là sự thay đổi điểm nhìn. Tất nhiên vai trò chính vẫn thuộc về người kể chuyện xưng tôi nói trên vì lời kể của nhân vật người đàn bà nằm trong lời kể của người kể chuyện. Sự lựa chon vai kể, điểm nhìn như trên nằm trong dụng ý nghệ thuật của nhà văn.

2.Đặc điểm, tính chất lời người kể chuyện

2.1.Tính chủ quan- chân thực

Việc chọn vai kể ngôi thứ nhất, người kể tự kể lại câu chuyện của mình trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã mang lại tính chủ quan- chân thực cho lời kể.

Tính chủ quan- chân thực trước hết bộc lộ trong việc tả thiên nhiên. Là nghệ sĩ cho nên người kể chuyện có khả năng phát hiện, cảm nhận những phương diện nên thơ của cảnh vật thiên nhiên. Đây là vẻ đẹp của vùng phá nước: “Vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào buổi sang, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà được một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại; giữa trời và nước ấy chỉ có một chiếc thuyền của một gia đình làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá- chiếc thuyền đứng im như làm bằng các tông dán vào cảnh vật êm ả”. Và đây là vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa: “ trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.

Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh để miêu tả cũng thể hiện sự tinh tế, nhạy cảm của một nghệ sĩ.

Tính chủ quan- chân thực thể hiện rõ nhất trong việc miêu tả tâm lí. Cũng như các nhân vật nghệ sĩ trong những tác phẩm khác của Nguyễn Minh Châu, người kể chuyện- nghệ sĩ Phùng tỏ ra là người có đời sống nội tâm phong phú Những trạng thái tâm lí của người kể chuyện hết sức đa dạng. Trước hết đó là sự rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên được bộc lộ trực tiếp ngay khi miêu tả đối tượng: “Vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào buổi sang, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà được một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại” hoặc khi kể lại những khoảnh khắc đứng trước vẻ thơ mộng của ngoại cảnh:

“Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh đắt trời cho như vậy (…) đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”

Có khi là nỗi xót xa trước cuộc sống của những người dân chài thấm đẫm trong giọng kể: “Thường thường mỗi thuyền là một gia đình, ngoài thuyền lớn còn vài chiếc mủng để đi lại. Cuộc sống cứ lênh đênh kắp cả một vùng phá nước mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết ở vào một khoảng đất nào”

Khi kể lại những việc được chứng kiến, người kể chuyện luôn bộc lộ thái độ, cảm xúc của mình một cách chân thành và thường bộc lộ trực tiếp bằng những từ ngữ chỉ trạng thái tâm lí: “tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “tôi cảm thấy (…) ngột ngạt quá”.

Tính chủ quan- chân thực còn được thể hiện qua tính hướng nội của lời kể: Trong lời kể thường có những từ ngữ miêu tả trực tiếp các hành vi bên trong, các ý nghĩ, cảm xúc, cảm giác của nhân vật: tôi trở nên bối rối…, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy…, tôi chắc mẩm…, tôi kinh ngạc…, tôi cảm thấy…, tôi mới sực nghĩ ra…,v.v…

Còn khi diễn tả những gì không thể trực tiếp quan sát được người kể chuyện thường dùng những từ ngữ có tính chất phỏng đoán:

“khuôn mặt (…) dường như đang buồn ngủ”, “có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết”, “người đàn bà dường như lúc này mới thấy đau đớn”, “hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”.v.v…

Có thể thấy tính chủ quan- chân thực của là một đặc điểm nổi bật của truyện ngắn này. Bởi các sự kiện trong truyện được kể lại từ chính điểm nhìn chủ quan của người kể, những cảm xúc, suy tư trước cảnh vật thiên nhiên, cuộc sống con người được chính người kể bộc lộ.

2.2.Tính khách quan- đáng tin

Trong Chiếc thuyền ngoài xa, vai kể ngôi thứ nhất đem lại tính chủ quan- chân thực cho lời kể như đã nói ở trên. Song điều đó có thể làm cho câu chuyện thiếu tính khách quan, và vì vậy sức thuyết phục của những thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm có thể bị giảm sút. Những hạn chế trên đã được khắc phục bằng một số thủ pháp:

Thứ nhất là chuyển vai kể và điểm nhìn nhưng vẫn không làm mất đi vai trò của vai kể chính. Việc chuyển vai kể làm tăng tính khách quan cho câu chuyện: Cách ứng xử kì lạ của người đàn bà khiến người kể chuyện từ kinh ngạc đến phẫn nộ và không hiểu nổi. Nguyên do đã được lí giải bằng chính lời kể của người đàn bà về cuộc đời mình. Lời kể của nhân vật này không chỉ giải thích cho cách ứng xử kì lạ của chị ta mà còn giúp người nghe hiểu được phần nào nguyên nhân của thói vũ phu ở người đàn ông đó. Lời kể ấy giúp cho Phùng, Đẩu và cả chúng ta nhận ra cuộc đời người đàn bà này không hề đơn giản, suy nghĩ của chị ta không phải là “cái sự lạc hậu” như chị ta nói mà là của một người “thấu hiểu các lẽ đời”. Lời kể ấy còn khiến ta cảm động trước lòng vị tha, đức hi sinh của người đàn bà khốn khổ. Điều quan trọng hơn nữa là nó mang lại ấn tượng về tính khách quan cho câu chuyện, bởi đây là lời của nhân vật tự kể về cuộc đời mình, tự nói lên những suy nghĩ của mình.

Thứ hai là đưa vào lời người kể chuyện những đánh giá, những cách nhìn nhận khác nhau về cùng một vấn đề. Chẳng hạn, về hành động của người đàn ông, người kể chuyện cho đó là hành động tàn nhẫn, anh đã nghĩ có thể lão ta độc ác là do đi lính ngụy. Thằng bé Phác cũng căm phẫn hành động của cha và nó đã bảo vệ mẹ bằng cách đánh chính người cha của mình. Cô y tá ở trạm xá thì “kể lể bằng tất cả giọng phẫn nộ thói tàn nhẫn của dân đàn ông đánh các trong vùng này- do phong tục để lại”. Còn người đàn bà thường xuyên bị chồng đánh đập lại cho rằng chồng mình trở nên độc ác như vậy là vì hoàn cảnh. Chị xác nhận: “ Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Qua những cách nhìn khác nhau ấy về người đàn ông, người đọc nhận thấy không thể nhìn nhận, đánh giá một con người một cách đơn giản, một chiều mà cần phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa đẫn đến những hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ. Người đàn ông ấy vừa đáng bị lên án bởi tính vũ phu, tính ích kỉ nhưng anh ta cũng có chỗ đáng được cảm thông, chia sẻ, bởi xét đến cùng, anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh sống quá khắc nghiệt.

Thật ra tất cả những cái nhìn khác nhau của các nhân vật đều là sự khúc xạ cái nhìn của tác giả. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại chọn người kể chuyện là một nghệ sĩ đã từng là người lính. Từ điểm nhìn của một người lính đã từng chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, lời kể gợi ra một cuộc chiến đấu mới không kém phần gay go, gian khổ so với cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Đó là cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc sống hòa bình.

Đưa vào trong lời kể chuyện những cách nhìn khác nhau, cái nhìn chủ quan của vai kể đã được khách quan hóa, tạo ra tính đối thoại, thể hiện khuynh hướng dân chủ hóa của văn học. Nhà văn không áp đặt thông điệp của mình cho người đọc mà bằng cách để cho vấn đề hiện lên một cách đa chiều, phức tạp buộc người đọc phải vào cuộc để cùng tìm câu trả lời với tác giả.

2.3.Tính trữ tình- triết luận

Lời kể hay tả trong lời người kể chuyện đều thấm đượm chất trữ tình.

Chất trữ tình thể hiện rất rõ trong lời tả thiên nhiên. Những đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của vùng phá nước, của chiếc thuyền ngoài xa là sự phát hiện chất thơ trong những cái tưởng như bình thường, quen thuộc, khơi dậy ở con người “những khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.

Lời kể tái hiện sự việc, con người song việc tái hiện ấy nhằm hướng tới những tâm trạng, cảm xúc, chiêm nghiệm: những phát hiện về cuộc sống với bao nghịch lí dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ, cách nhìn về cuộc sống của Phùng.

Trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu nói chung, trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nói riêng chất trữ tình gắn với tính triết luận.

Tính triết luận có khi thể hiện qua những suy ngẫm có tính chất triết lí được rút ra sau một sự việc nào đó. Chẳng hạn, sau khi buộc phải đi cảnh biển có sương theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng suy nghĩ về vai trò của hoàn cảnh: “Ở đời cái gì cũng thế, con gnười bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm được một cái gì”. Sau khi ngẫu nhiên chụp được một cảnh đắt trời cho, Phùng “nghĩ rằng với những tay nhiếp ảnh nghệ thuật nếu không thêm sự sắp đặt đầy tài tình của ngẫu nhiên thì với tài ba bao nhiêu, anh cũng chỉ thu được những tấm ảnh …vô hồn”. Suy nghĩ ấy chứa đựng triết lí về mối quan hệ giữa tài năng và ngẫu nhiên. Anh còn suy ngẫm về bản chất của cái đẹp: “Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức?”. Rõ ràng lời kể thuật lại những suy ngẫm có tính cá nhân nhưng những suy ngẫm ấy đã vượt qua giới hạn của những hiện tượng cá biệt, vươn tới tầm khái quát.

Tính triết luận còn thể hiện qua những hình ảnh mang tính biểu tuợng: “Chiếc thuyền ngoài xa” với vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích” không chỉ là một hình ảnh cụ thể mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp của cuộc sống khi người nghệ sĩ tiếp cận nó ở cự li, khoảng cách “xa”- xa ở đây không đơn thuần về mặt không gian, địa lí. Tất cả những nghịch lí mà Phùng chứng kiến đều có liên quan đến chiếc thuyền ngoài xa ấy là một trong muôn vàn những cảnh ngộ éo le có thể gặp trong cuộc sống đời thường. Nhưng nó còn là biểu tượng cho những phương diện khuất lấp, phức tạp của cuộc sống mà với cái nhìn hời hợt, đơn giản, người nghệ sĩ khó có thể phát hiện ra. Hình ảnh cuối truyện: “…tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” là ấn tượng chủ quan của người kể chuyện. Ấn tượng ấy là sự khúc xạ “những điều trông thấy” của người kể chuyện. Nó gợi ra cái nhìn mà người nghệ sĩ chân chính cần phải có: bằng vốn sống, sự trải nghiệm, người nghệ sĩ cần nhận ra không chỉ những gì thuộc bề mặt mà cần thấu suốt bề sâu của cuộc sống vốn nhiều bộn bề, phức tạp.

C/ Kết luận:

Như vậy việc lựa chọn người kể vai kể trong truyên ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nằm trong dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Với việc chọn vai kể ngôi thứ nhất- một nghệ sĩ nhiếp ảnh tự kể chuyện mình- nhưng trong quá trình kể có sự dịch chuyển vai kể và điểm nhìn, lời người kể chuyện trong tác phẩm vừa mang tính chủ quan- chân thực vừa mang tính khách quan- đáng tin đồng thời có tính trữ tình- triết luận. Những đặc điểm trên tạo nên giọng điệu vừa triết lí suy tư, vừa trữ tình sâu lắng, phù hợp với nội dung tư tưởng của tác phẩm. Đó là những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà văn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống về cuộc đời, về con người: nghệ thuật chân chính phải luôn gắn với cuộc đời và vì cuộc đời; cần phải nhìn con người và cuộc sống một cách đa diện nhiều chiều thì mới có thể tránh được cái nhìn ấu trĩ, giản đơn. Có thể nói, đặc điểm lời người kể chuyện đã góp phần đưa thông điệp của nhà văn đến với người đọc một cách tự nhiên mà thấm thía. Đồng thời nó tạo nên phong cách ngôn ngữ riêng của nhà văn.

(Hoàng Thúy Hằng CHK18 - Lí luận ngôn ngữ)

------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, 2004, 297 tr
2. Nguyễn Thái Hòa, Từ điển tu từ- phong cách- thi pháp học, nxb Giáo dục, 291 tr
3. Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu Tuyết, Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học sư phạm, 2007, 258 tr
4. Nhiều tác giả (Mai Ngọc Chừ chủ biên), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, 2007, 587 tr
5. Nguyễn Minh Châu, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb văn học, 1999, 645 tr
6. Trần Nho Thìn, Phân tích tác phẩm Ngữ văn 12, Nxb Giáo dục, 2008, 216 tr
7. Trần Đình Sử, Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, 2006, 226 tr
8. Lưu Thị Lan Phương, Đặc trưng phong cách cấu trúc lời nói nghệ thuật trong Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Luận án thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm Hà Nội, 2007, 138 tr

(Sưu tầm)

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu



CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYÊN MINH CHÂU

Chuyên đề này nhằm giúp các em củng cố các vấn đề cơ bản xoay quanh tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

- Tình huống nhận thức độc đáo

- Đổi mới trong cách nhìn hiện thực và con người của Nguyễn Minh Châu.

- Nghệ thuật tự sự đặc sắc.

KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Khái quát

a. Tác giả

+ Tiểu sử - con người

(Theo tâm sự của chính nhà văn, lời kể của Vương Trí Nhàn và nhận xét của nhiều bạn bè, người thân).

- Từ bé tới lớn: rụt rè và vô cùng nhút nhát.

- Sống nội tâm, hay trăn trở, thích một mình để suy ngẫm, phân tích.

- Chân thành.

=> Thiên hướng nhận thức, phân tích, nghiền ngẫm hiện thực trong văn Nguyễn Minh Châu.

+ Sáng tác:

- Quá trình sáng tác: chia hai chặng rõ rệt.

o Trước thập kỉ 80: ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn.

o Đầu thập kỉ 80 – khi mất: cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.

- Đổi mới:

o Quan niệm mới về con người và cuộc đời:

 Con người không nhất phiến, đơn chiều, lí tưởng mà là con người bề bộn, phức tạp, được ánh xạ qua nhiều mối quan hệ với hiện thực (cả mặt tốt lẫn mặt xấu “rồng phượng và rắn rết”…)

 Cuộc sống đa chiều, đầy những vết nham nhở sần sùi, có cả niềm vui lẫn nỗi buồn, sự vật vã, bức bối đầy phức tạp và biến động.

=> Khơi tìm những mặt khuất lấp của chiến tranh, những phần sâu kín trong tâm hồn con người.

o Đề tài: con người cá nhân với các câu chuyện đời thường là trung tâm.

Không phải con người “trùng khít với chính mình, với bộ áo xã hội của nó một cách đau đớn, giả dối” (Bakhtin) mà là con người hiện thực trong các mối quan hệ đa dạng.

=> “Đọc lời ai điếu cho một nền văn nghệ minh họa”.

+ Vị trí văn học sử:

Ngòi bút tiêu biểu của thời kỳ văn học đổi mới – người mở đường đầy tài hoa và tinh anh (Nguyên Ngọc).

b. Tác phẩm:

+ Xuất xứ: Thuộc giai đoạn sáng tác thứ 2.

+ Vị trí văn học sử:

- Tiêu biểu cho những đổi mới của Nguyễn Minh Châu.

- In đậm dấu ấn phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu.

+ Tình huống truyện:

- Nhận diện: tình huống nhận thức.

- Mô tả: Phùng - một nghệ sĩ nhiếp ảnh có tài đang trong giây phút thăng hoa tuyệt đỉnh, khám phá ra vẻ đẹp “trời cho”của con thuyền biển buổi sớm mai thì chứng kiến đôi vợ chồng từ trên con thuyền bước xuống, lão đàn ông đánh vợ một cách hung bạo và vô lí. 

Sự việc lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ thấy thái độ nhẫn nhịn, câm lặng chịu đựng của người đàn bà mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em Phác trước sự dã man của cha với mẹ.

Anh nhận rõ những ngang trái, nghịch lí trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em Phác, người đàn ông, người đồng đội (Đẩu) và chính bản thân mình.

+ Bố cục: 2 phần lớn

- Phần 1 (từ đầu - chiếc thuyền lưới vó đã biến mất): Hai phát hiện của Phùng.

- Phần 2 (còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng chài.

2. Phân tích

a. Hai phát hiện của Phùng.

+ Phát hiện thứ nhất: Phát hiện một.

- Vị thế của Phùng: nghệ sĩ nhiếp ảnh.

- Mục đích của chuyến đi: chụp bổ sung một bức ảnh buổi sáng có sương mù theo yêu cầu của trưởng phòng (để xuất bản bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển).

- Điểm nhìn: từ xa, trong làn sương mờ ảo.

- Sự hình thành tác phẩm:

• Bắt đầu từ cảnh “trời cho”.

• Tuy nhiên để có được tác phẩm, cần một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế nhanh nhạy nắm bắt khoảnh khắc xuất thần của nghệ thuật:

o Mô tả khung cảnh lãng mạn, thơ mộng.

o Trạng thái, hành động:

o Bối rối, trong tim tưởng như có cái gì bóp thắt lại => cơn “đau đẻ”, khoảnh khắc xung động cực điểm để tác phẩm hoài thai.

• Không phải lựa chọn gì nữa, bấm một hồi “liên thanh” => dường như thiên nhiên đã bày sẵn tuyệt tác, người nghệ sĩ chỉ việc ghi lại một cách dễ dàng.

- Cảm hứng triết lí về nghệ thuật:

• Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”: “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ; một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. => nghệ thuật là sự giản dị, tự nhiên.

• “Cái đẹp là đạo đức” => khoảnh khắc phát hiện ra một tác phẩm độc đáo là sự “khám phá chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn” => cái đẹp “thanh lọc” tâm hồn, để tâm hồn con người cao khiết, không gợn đục, thánh thiện.

Nhận xét:

Sự phát hiện ra cái đẹp trong nghệ thuật đôi khi là kết hợp của rung động và duyên may. Nhìn ở góc độ này, nó là thứ dẫu sao còn tương đối dễ phát hiện, dễ thấy.

+ Phát hiện thứ hai: Phát hiện về hiện thực cuộc sống.

- Điểm nhìn: chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng => gần, trực diện, rõ nét.

- Hình ảnh:

- Người đàn bà: cao lớn, với những đường nét thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi(…) tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.

- Người đàn ông: tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ.

- Hình ảnh xấu xí, sù sì, trần trụi, thô mộc, gai góc của đời sống, đối lập với vẻ lãng mạn của khung cảnh thiên nhiên trong bức ảnh nghệ thuật.

- Hành động:

- Người chồng: hùng hổ, rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quật tới tấp vào lưng người đàn bà => hành động hung bạo, dã man, lạnh lùng, như một con thú dữ.

- Người vợ: cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.

- Đứa con: giằng thắt lưng, quật lại bố để bảo vệ mẹ.

- Giống như một vở kịch câm, không lời chú giải, đầy nghịch lí khiến câu hỏi về hiện thực trong Phùng muốn vỡ ra.

Nhận xét:

Phát hiện về một hiện thực gồ ghề, gai góc, ngang trái, phức tạp, không dễ lí giải, khác xa, thậm chí đối lập với vẻ đẹp bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh.

+ Mối quan hệ giữa hai phát hiện (mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nhà văn và cuộc đời)

- Phát hiện nghệ thuật, ở một chừng mực nhất định dễ thấy hơn phát hiện về hiện thực.

- Đời sống con người vốn bề bộn, phức tạp. Hiện thực không đơn chiều, giản đơn, toàn màu hồn mà đa chiều, phân tranh nhiều mảng sáng tối chưa dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng ở ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực mờ ảo - chiếc thuyền thấp thoáng biển khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu sắc, suy tư hơn nữa.

b. Người đàn bà làng chài và câu chuyện đời tự kể.

+ Hình dáng: thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ.

+ Thái độ, hành động khi được mời tới toà án:

- Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi .

- Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà Đẩu mời.

- Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ người chồng vũ phu: “Quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” => kiên quyết không bỏ chồng bằng mọi giá.=> hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và Phùng => một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận đánh thừa sống thiếu chết.(ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn) => Câu hỏi đặt ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh hoàng với người chồng hung bạo kia?

+ Câu chuyện cuộc đời:

- Cách xưng hô: con, quý toà - chị, các chú => thay đổi tương quan: bị động, yếu thế, thiếu tự tin, bề dưới nói với bề trên - chủ động, bình đẳng, con ngưòi có hiểu biết nói với người đang lắng nghe.

- Nội dung câu chuyện:

- Xấu, buộc phải lấy anh hàng chài

- Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật => chồng hung hăng.

- Bất kể lúc nào khổ quá, chồng lại lôi ra đánh, ngay trên tàu, sau này xin mãi mới được lên bờ chịu đòn.

- Lí lẽ để “đừng bắt tôi bỏ nó”:

- Giá đẻ ít đi => biện minh cho hành động hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc vê sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.

- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông(. ..) những khi biển động => vì cần một trụ cột.

- Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình => vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ.

- Cũng có lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ => cuộc sống với ngưòi đàn ông “dã man” kia không phải không có những khoảnh khắc đầm ấm hạnh phúc.

- Nhận xét:

Qua nội dung câu chuyện, cách kể và ngôn ngữ kể chuyện, thấy được:

- Số phận người đàn bà: đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc sống bị đày đoạ, đánh đập.

- Tính cách: yêu thương con, vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ sống giản đơn của một người đàn bà hàng chài.

- Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện thực đời sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.

c. Hệ thống nhân vật

+ Người đàn bà: vô danh, phiếm định => khái quát cuộc đời, số phận, tính cách của bao người phụ nữ làng chài khác.

+ Người đàn ông:

- Xưa kia: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành”.

- Nay: vì nghèo đã biến đổi thành gã đàn ông hung bạo, vũ phu.

- Có sự gặp gỡ với các nhân vật của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao trước cách mạng.

+ Chị em Phác:

Nạn nhân bé bỏng, đau khổ => thêm vào tác phẩm một nét khắc dằn dữ của hiện thực.

+ Phùng:

- Là người lính vào sinh ra tử nơi chiến trường.

- Là một nghệ sĩ tài hoa, phát hiện ra vẻ đẹp tinh khôi, huyền mộng của nghệ thuật.

- Chứng kiến cảnh đánh đập lần thứ hai, “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới” can thiệp => Ý nghĩa:

- Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp lung linh, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần.

- Thái độ cần có của người nghệ sĩ:

- Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời vì nghệ thuật chân chính luôn hướng tới cuộc đời.

- Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người sẵn sàng khám phá, dò tìm để thấu hiểu, yêu ghét mọi lẽ buồn vui đời thường và dám đấu tranh cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

- Chi tiết: hỏi người đàn bà một câu cắt ngang không ăn nhập: người chồng trước có đi lính nguỵ không => định dung cái nhìn trong chiến tranh để lí giải một hiện thực nghịch lí thời hậu chiến => Dụng ý: hiện thực cuộc sống mới hôm nay đã khác xa với hiện thực 30 năm chiến tranh, bề bộn, ngổn ngang, đa diện, bởi thế nó đòi hỏi một điểm nhìn khác, cách lí giải hiện thực khác. Không thể dùng cái nhìn địch – ta để phân tích mà cần nhìn nhận sâu sắc từ nhiều góc độ.

d. Một số đặc sắc về nghệ thuật.

+ Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa.

- Con thuyền có thật.

- Con thuyền biểu tượng cho: nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.

+ Nghệ thuật tự sự độc đáo:

- Điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện Phùng - một người lính dày dặn kinh nghiệm chiến trường, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, một con người tha thiết đấu tranh cho sự công bằng => điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư.

- Ngôn ngữ:

• Ngôn ngữ người kể chuyện: khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục (do sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật).

• Ngôn ngữ nhân vật: cá thể hoá (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quí toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình, dịu dàng, xa xót khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, tục tằn,…)

CỦNG CỐ KIẾN THỨC

Đề 1: Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 2: Phân tích tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa

Đề 3: Phân tích những phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 4: Tính luận đề trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 5: Những đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống của Nguyễn Minh Châu trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Đề 6: Phân tích “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu để thấy cái nhìn thấu hiểu trĩu nặng tình thương và nỗi lo cho con người.

Đề 7: Phân tích các nhân vật trong “Chiếc thuyền ngoài xa” để làm nổi bật tư tưởng của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Gợi ý giải đề

Đề 1: Ý nghĩa nhan đề.

+ Xuất xứ tác phẩm:

+ Ý nghĩa nhan đề:

- Con thuyền có thật trong cuộc đời

- Con thuyền biểu tượng cho nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.

- Cái đẹp nghệ thuật dễ tìm hơn cái đẹp đích thực của con người

- Nghệ thuật phải quan tâm đến đời sống và phải quan tâm đến con người.

Đề 2: Tình huống truyện.

+ Giới thuyết:

+ Phân tích:

- Nhận diện

- Mô tả

- Ý nghĩa:

- Giúp nhà văn khám phá tính cách, vẻ đẹp nhân vật người đàn bà.

- Thể hiện rõ nét tư tưởng

+ Đánh giá

- Tình huống bất ngờ và kì lạ

- Khơi gợi tư duy và cảm hứng người đọc.

- Tình huống có “sức xoáy”

Đề 3: Những phát hiện của nghệ sĩ Phùng

+ 2 phát hiện

+ Phân tích dựa vào phần Kiến thức cơ bản.

Đề 4: Những đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống

+ Hiện thực cuộc sống: bề bộn, nhiều chiều, phức tạp, không nhất phiến, lí tưởng mà đầy ngang trái.

+ Vẻ đẹp của con người vì thế cũng khó phát hiện hơn, đòi hỏi phải có một góc nhìn khác.

Đề 5: Phân tích các nhân vật để làm nổi bật tư tưởng

Dựa vào kiến thức cơ bản để làm bài.


Từ Baovietnam.vn
Bài viết liên quan
+++++++++++