Jul 7, 2012

Bình giảng tác phẩm Những đứa con trong gia đình



NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
Bài viết liên quan
++++++++++++

ĐỖ KIM HỒI


Đã có một lần nào, tôi thử điểm lại trong trí nhớ của mình tên những tác phẩm chính của Nguyễn Thi: Người mẹ cầm súng, Mẹ vắng nhà, Những đứa con trong gia đình, Những sự tích ở đất thép, Ước mơ của đất, Chuyện xóm tôi, Ở xã Trung Nghĩa… Để rồi sực nghĩ ra rằng: hình như làm nên một Nguyễn Thi trong nền văn học của chúng ta không phải là cảm hứng về những gì lạ lẫm, xa vời, bay bổng, mà là Mẹ, là Đất, là Quê hương, làng xóm, những cái gắn bó ruột rà, thân thiết với đời sống thuần hậu và còn rất nhiều cực khổ của con người. Đọc Nguyễn Thi, thấy tác phẩm của ông nồng nàn hơi thở thô phác, ấm áp và mạnh mẽ của đất đai, những nhân vật của ông cắm chắc vào đời sống, luôn luôn lăn lộn trong gian nguy vất vả, da dẻ cứ đỏ au lên vì nắng gió, khẩu súng lúc nào cũng ấm tay người và áo quần dường như vẫn đẫm chất mồ hôi mặn mòi, khét cháy.

Có thể bởi vậy mà khi nghĩ đến Nguyễn Thi, trong óc tôi thường cứ hay hiện về một ý thơ của Nadim Hikmet:

Làm đám mây rất thích
Làm con chim lại càng thích hơn.
Nhưng tôi vui sướng được làm con người,
Và cái yêu thích nhất của tôi là đất,
… Hễ cứ rời xa mặt đất là một nỗi buồn xâm chiếm lấy tôi …

Nguyễn Thi hay viết về người anh hùng. Phẩm chất anh hùng, có thể nói, luôn có mặt ở các mức độ khác nhau trong hầu như tất cả các nhân vật chính diện trong tác phẩm của ông. Nhưng đó là kiểu người anh hùng – con đẻ của đất cày và sông nước; ở đó, cái anh hùng hòa lẫn với cái bình dị, sự cao cả hiện ra dưới vẻ thân thuộc, gần gũi, chất phác tự nhiên, và rất lắm khi chất anh hùng lại bộc lộ ra qua những biểu hiện đến là thơ ngây, ngộ nghĩnh.

Có cảm giác như, khi tìm cách lí giải, cắt nghĩa phẩm chất anh hùng của con người, Nguyễn Thi đã rất tâm đắc với ý tưởng nghệ thuật này: người anh hùng đó là sản phẩm sinh ra từ thời đại. Nhưng người anh hùng lại không chỉ là sản phẩm của thời đại mà thôi. Đọc Nguyễn Thi, ta thấy rõ: phẩm chất anh hùng của họ còn phải được hiểu như sự tiếp nối một nguồn cội, một nếp nhà, còn phải được xem như là truyền thống, là di sản, một di sản thiêng liêng mà các thế hệ cha anh đã truyền lại, đã bàn giao lại cho lớp cháu con. Tôi thấy Nguyễn Thi hình như không muốn chia sẻ với loại cảm hứng thiên về khai thác những xung đột lí tưởng giữa những con người trong một gia đình hay dòng họ. Hứng thú nghệ thuật của ông dồn cả cho kiểu gia đình như gia đình chị Út trong Người mẹ cầm súng và nhất là trong Mẹ vắng nhà, ở đó, người mẹ đã đem lại cho đứa con không chỉ một hình hài mà còn là một tấm gương về cách sống.

Nhưng ở vị trí trung tâm của Mẹ vắng nhà đang là những đứa trẻ còn rất nhỏ và còn chưa rời khởi mái nhà của cha mẹ. Vấn đề sẽ có ý nghĩa nhiều hơn trong một truyện ngắn khác, cái truyện ngắn mà giờ đây ta bàn tới, truyện Những đứa con của gia đình.

Nhân vật chính trong thiên truyện là những thanh niên đã bước sang lứa tuổi mười tám đôi mươi, đã trở thành những chiến sĩ xông pha trận mạc, và đã lập chiến công. Hai chị em Chiến, Việt – tên những thanh niên ấy – đã từng bắn giặc trên sông Định Thủy. Riêng Việt, cậu em trai, còn “diệt được một xe đầy Mĩ với sáu thằng Mĩ lẻ” trong một trận đọ lê đẫm máu. Vậy mà trong tác phẩm, Nguyễn Thi vẫn thể hiện họ trong tư cách những đứa con. Họ quả có được miêu tả trong quan hệ với anh em đồng đội: anh Tánh, anh Công… Thế nhưng họ vẫn được miêu tả nhiều hơn trong quan hệ với gia đình.

Còn một điểm khác nữa giữa truyện ngắn này với truyện Mẹ vắng nhà mà ta vừa nhắc đến: ở đây, được nói tới như những đứa con trong gia đình lại là Chiến, Việt, những người mà gia đình thực đã không còn nữa: cha mẹ đều đã hi sinh, ngôi nhà cũ đã nhường để làm trường học, bàn thờ má phải gửi sang nhà khác, và bản thân thì đang chiến đấu ở nơi xa… Nhưng ngay cả với những người như thế, hình ảnh của gia đình, những kí ức về gia đình, những tình cảm với gia đình và những truyền thống mà họ là lớp người kế tục… tất cả vẫn sống như là một thực thể, một nguồn sinh lực nuôi dưỡng tinh thần, một nguồn sáng soi đường cho con người cảm xúc, nghĩ suy, hành động.

*
* *

Những đứa con trong gia đình có một lối tự sự mang khá nhiều nét riêng. Câu chuyện được thuật lại không hoàn toàn theo trật tự thời gian mà chủ yếu là nhịp theo dòng hồi tưởng miên man đứt nối của Việt, vào lúc người chiến sĩ trẻ ấy bị thương sau cuộc đọ lê, cứ liên tục ngất đi rồi tỉnh lại trong hoàn cảnh chỉ có mình với mình giữa một chiến trường mênh mông đầy bóng tối – bóng tối của màn đêm và bóng tối do mắt Việt bị thương nên không thể nhìn thấy gì ở bên ngoài.
Khi chọn kiểu kể chuyện này không rõ tác giả có nghĩ đến và có chịu ảnh hưởng gì của lối viết theo “dòng ý thức” của tác giả bộ Đi tìm thời gian đã mất hay không. Nhưng lối thuật chuyện mà Nguyễn Thi đã chọn quả có giúp tác giả dễ dàng cất bỏ những tấm vách ngăn giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái đang ở trước mặt và cái đã thành kỉ niệm xa xưa, giữa những chi tiết thoáng đến thoáng đi, tưởng chứng như bâng quơ, như ngẫu nhiên, với những tư tưởng tình cảm lớn lao, trọng đại.

Hãy dõi theo một đoạn văn nào đó, chẳng hạn như cái đoạn bắt đầu từ câu: “Việt tỉnh dậy lần thứ hai lúc trời lất phất mưa”. Tiếng máy bay, tiếng động duy nhất mà Việt nghe thấy trên một bãi chiến trường đã trở nên vắng lặng từ lần tỉnh đầu tiên, bây giờ đã tắt hẳn rồi. Chỉ còn tiếng “ếch nhái kêu dậy lên”. Âm thanh ấy dẫn Việt trở lại những ngày còn chưa đi bộ đội, những đêm trời vừa dứt mưa, hai chị em lóp ngóp ra đồng soi đèn bắt ếch. “Cười từ lúc đi cho đến lúc về”. Mạch liên tưởng miên man tràn đến chú Năm, vì “khi để ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang”. Rồi ý nghĩ lại đi từ “Việt thương chú Năm…” lần lần chuyển qua cuốn sổ gia đình mà chú vẫn ghi đều đặn, và những gì cuốn sổ ấy gợi lên. Đến đây, dòng ý nghĩ chợt đứt, vì Việt lại ngất đi. Đoạn văn tiếp liền sau cũng thế. Nó mở đầu đột ngột với câu: “Việt choàng dậy”. Ta sẽ không còn gặp ở đây tiếng ếch kêu đêm. Chỉ có, trong buổi ban ngày, tiếng chim cu rừng gù gù đâu đó. Tiếng chim gợi nhớ chiếc ná thun. Và chiếc ná thun, đến lượt nó, thật không ngờ mà cũng thật tất nhiên, đưa Việt về với những kỉ niệm về người mẹ, thoạt đầu là khi mẹ mất, rồi mới ngược dần về những ngày mẹ còn sống với đàn con, về đôi mắt mẹ “sắc ánh lên nhìn bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển”. Đến đúng khúc thiêng liêng ấy, mạch văn đột nhiên bị ngắt giữa chừng, vì Việt lại bị ngất đi lần nữa.

Cứ thế, dòng tâm tư trong truyện chảy trôi, khi đến gần bờ hiện tại, khi lại lượn xa tắp về quá vãng, nhịp trôi khi chậm khi nhanh, khi liền khi đứt. Tâm trạng con người hiện lên chân thật, tự nhiên, bởi nó vốn dĩ vẫn như thế trong đời sống. Nhưng chính nhờ qua cái tổ chức lại, cải tạo lại, những khoảng thời gian rất xa nhau bây giờ đồng hiện bên nhau, những khối không gian rất cách biệt nhau bây giờ tồn tại cạnh nhau; đời sống như được soi chiếu dưới một thứ ánh sáng khác, nó hiện lên trong nhiều màu vẻ phong phú, bất ngờ.

Nhưng ưu điểm của lối thuật chuyện theo dòng kí ức vừa liên tục vừa gián đoạn như đã nói ở trên không chỉ thể hiện ở chỗ nó làm cho kết cấu của truyện ngắn thêm linh hoạt, thêm sống động, thêm những ngã rẽ, những khúc quanh người đọc không dễ dự kiến ra. Không chỉ có thế. Bởi không nên quên rằng nhà văn đã để cho nhân vật Việt của mình hồi tưởng trong hoàn cảnh hoàn toàn đơn độc giữa một trận địa vắng lặng đến ghê sợ, và giữa sự rình rập của hiểm nguy và của cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào. Hãy đọc lại truyện để xem Nguyễn Thi đã viết hay đến thế nào về “cái cảm giác một mình bật lên” thật rõ ràng, giữa một cái mênh mông đầy đe dọa trong một chàng tân binh trơ trọi, hai mắt không còn nhìn thấy gì, tay đau không thể quẹo ra sau mà lấy bình nước trong khi người đã khô khốc đi vì đói khát, mười ngón tay không còn ngón nào kéo nổi cơ bẩm súng, lết người đi được một đoạn cũng là cả một kì công. Và nếu cái “bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt” trong cánh rừng cao su vừa trải qua trận đọ lê dữ dội kia thỉnh thoảng có bị phá vỡ thì cái phá vỡ nó lại là “tiếng trực thăng phàng phạch bay từng bầy trên đầu”, tiếng “pháo bầy nổ càng gần hơn”, “tiếng xe bọc thép ào ào chạy qua hướng trước mặt”.

Vào một lúc như thế, người ta có thể nghĩ gì? Chắc chắn người ta sẽ nhớ lại, và cũng sẽ chỉ nhớ lại những gì gắn bó thân thiết nhất, những gì đã thực sự làm nên đời sống của bản thân mình. Vì thế, với việc để nhân vật Việt trong thế đối mặt với cái chết và đối diện với bản thân, chỉ nghĩ nhiều nhất, lâu nhất đến những người trong gia đình (chị Chiến, má, chú Năm…), tác giả đã tìm được một cách thức nghệ thuật hữu hiệu để chứng tỏ rằng: gia đình, đó là phần nguồn cội thấm sâu nhất của con người ấy, và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng vì nó đã hiện lên trong một thời khắc thiêng liêng.

Như thế, kiểu kết cấu theo dòng chảy của một quá trình hồi tưởng là một công phu sáng tạo về hình thức. Nhưng ý nghĩa nghệ thuật của sự sáng tạo hình thức ấy lại ở chỗ nó góp phần đắc lực nhất trong việc biểu hiện những khám phá về mặt nội dung.

*
* *

Nếu phải chọn trong truyện ngắn này của Nguyễn Thi một câu văn nào cô đúc được tư tưởng cơ bản của toàn thiên truyện thì tôi sẽ xin được dẫn ra câu nói của chú Năm: “… Chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó”. Tôi muốn hiểu câu nói này trên hai ý nghĩa. Thứ nhất, chỉ được coi là con của gia đình những ai đã ghi vào được, ai đã làm nên được khúc của mình trong dòng sông truyền thống. Con, đó là sự tiếp nối, nhưng không chỉ là sự tiếp nối một huyết thống, mà còn là sự tiếp nối một truyền thống. Nhưng còn một ý nghĩa thứ hai: không thể hiểu khúc sau của một dòng sông, nếu không hiểu ngọn nguồn đã sinh ra nó. Cũng tương tự vậy, ta chỉ có thể hiểu về những đứa con của một truyền thống gia đình khi, và chỉ khi ta hiểu ít nhiều về chính cái truyền thống gia đình đã sinh thành ra những đứa con.

Trong truyện, cái truyền thống ấy không kết tinh ở nơi đâu đấy đủ hơn là trong hình tượng Chú Năm. Đọc truyện, tôi thấy thích ông già này trước hết vì thứ ngôn ngữ đầy cá tính của ông. Một thứ ngôn ngữ chỉ cần nghe thoáng qua đã nhận ra ngay cái chất Nam Bộ không thể nào trộn lẫn. Nhưng có lẽ phải đợi tới khi qua miệng của chú Năm thì những từ Nam Bộ như trọng trọng, thỏn mỏn mới được dịp trở nên cực thú. Truyện kể rằng chú Năm là người “đi đây đi đó nhiều” và cũng “ham sông ham bến”. Nhưng đọc Những đứa con trong gia đình, ta thấy nhân vật này không chỉ ham sông bến mà còn ham đạo nghĩa. Trong con người sống giữa thời chống Mĩ này, vẫn thấy phảng phất cái tinh thần Nguyễn Đình Chiểu thuở xa xưa. Và điều đó được nhận ra vẫn chủ yếu là qua lời nói: “Chú Năm nói mầy với ta đi kì nầy là ra chân trời mặt biển…” – đấy là Chiến nhắc lại lời của chú Năm. Còn đây là lời nói trực tiếp của ông già ấy: “Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Những câu nói như thế này đặc sắc bởi đâu, nếu không phải bởi trong chúng ta nghe thấy âm vang của sóng nước và của đạo lí nghìn xưa.

Nguyễn Thi đã trao cho tính cách thú vị này vai trò của một thứ gia phả sống. Đọc truyện, ta sẽ thấy rõ rằng nhân vật này luôn hướng về truyền thống, sống với truyền thống, đại diện cho truyền thống và lưu giữ truyền thống trong câu hò và cuốn sổ. Trong toàn truyện chỉ có chú Năm là người duy nhất hay hò. “Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện thế nào chú cũng hò lên mấy câu… những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này”. Nhưng nhà văn muốn loại trừ ngay trong ta mọi vấn vương, dù nhỏ, của cách hiểu rằng cái người hay hò này ít nhiều cũng là một tài năng nghệ thuật. Trong chú Năm, không hề có chút bóng dáng nào của Trương Chi. “Chú già rồi, giọng hò đã đục và tức như gà gáy”. Nhưng hãy xem con người có cái giọng “đục và tức” nọ hò mới thật hết mình, thật trang nghiêm, tha thiết làm sao! “Gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắc nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể chú gửi gắm những câu hò…”. Thì ra, những tấm áo vá quàng, con sông dài cá lội, người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công… Không chỉ đơn thuần là những câu ca réo rắt mà là ngọn nguồn, là hồn thiêng của cha ông đang nhập vào chú Năm – người ca công thành kính – để truyền đến đời đời con cháu.

Song tôi vẫn nhớ cho là trong toàn bộ phần viết về chú Năm thì đoạn văn nói về cuốn sổ gia đình vẫn hay hơn, tài hơn tất cả. Gọi là cuốn sổ, nhưng nó thực là một thứ biên niên ấy được viết ra từ một ngòi bút thực sự bình dân, “chữ viết lòng còng”, lời văn mộc mạc. Một cuốn sử hay một cuốn gia phả “chính thống” chắc sẽ không có những chi tiết “thỏn mỏn” kiểu như: thím Năm bị bắn bể xuồng khi đi rọc lá chuối, “chết còn mặc cái quần mới, trong túi còn hai đồng bạc”; ông nội ra nắm giàm bò bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng… Lại càng không có cuốn gia phả nào ghi kĩ càng đến ngày bọn lính chửi bác Hai một câu, ngày bà nội bị chúng đánh (thậm chí còn cặn kẽ đến mức: đánh ba roi!). Lời lẽ trong cuốn sổ của chú Năm có vẻ đúng là những sự kể lể dài dòng và cứ như không thèm biết thế nào là thanh nhã và trau chuốt. Nhưng xin hãy thử tẩn mẩn và dông dài như thế xem nó khó hơn hành văn gọn gàng đẽo gọt gấp mấy lần? Và hãy thử bỏ những câu chữ mà ta vẫn nông nổi tưởng như thừa, tưởng như không đáng kể, đáng viết xem, cuốn sổ ấy sẽ còn gì? Mất cái chất vụng về, thô mộc đó, chắc chắn những gì chú Năm viết ra sẽ không còn giá trị của những bằng chứng nóng hổi về nợ máu của kẻ thù và về sự dũng cảm, kiên cường của dòng họ trong chiến đấu.
Hình tượng người mẹ cũng là một hiện thân cho truyền thống. Đây là một hình tượng mang những dấu ấn riêng của phong cách Nguyễn Thi. Thiết nghĩ rằng, dù thích hay là không thích mặc lòng, chúng ta vẫn không thể không nhận rằng Nguyễn Thi đã tạo được cho những người phụ nữ, người mẹ trong tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng biệt, không giống ai và cũng chưa ai giống nổi. Đừng mong chờ tìm thấy ở Nguyễn Thi một người mẹ đẹp một vẻ đẹp mảnh mai yếu đuối. Ngược lại, họ chắc khỏe về mặt thể chất và mạnh mẽ về mặt tinh thần. Người mẹ của Việt trong truyện ngắn này cũng thế. Chị được sinh ra không để hưởng sự chiều chuộng, vuốt ve, mà để chống chọi với gian nguy, khó nhọc. Cái gáy đo đỏ, đôi vai lực lưỡng, chiếc nón rách, tấm áo bà ba đẫm mồ hôi đã đen lại không còn thấy bạc, dư sức một mình rinh thúng lúa từ dưới thuyền đặt lên giường ngủ – đó là vài nét họa trong bức chân dung người mẹ trong truyện ngắn này. Tuy nhiên, đấy vẫn là một con người rất phụ nữ. Phụ nữ ở sự tảo tần, xốc vác: sáng sáng, câu dặn dò con vừa hối hả buông khỏi miệng thì chân đã vội đẩy xuồng ra tít giữa sông. Chiều về, cái nón rách có dễ chưa kịp quạt cho khuôn mặt bớt đi một hai phần đỏ rực, lại đã bơi đi, canh hai mới trở lại nhà, người sực mùi lúa gạo và mồ hôi, thứ mùi của đồng áng, của cần cù sương nắng.

Nhưng ấn tượng đậm đà và có sức gây cảm động lòng người nhiều hơn ở cả con người ấy là khả năng cắn răng ghìm nén đau thương để sống và duy trì sự sống, để chở che cho đàn con và tranh đấu. Tôi cho đó mới là phẩm chất đích thực cao quý của người mẹ, chí ít thì cũng là của người mẹ của một đất nước như đất nước mình, và của một thời như thời chống Mĩ. Là người mẹ, tức là trở thành một sức mạnh mà không một tàn bạo, đau thương nào hòng khuất phục. Người mẹ của chị em Chiến, Việt chính là như thế. Chồng bị giặc chặt đầu, nỗi đau ấy khác gì dao cứa ngang tim, nhưng chị cố không để rơi nước mắt. “Chiều hôm đó, về tới nhà má mới khóc… Bao nhiêu năm sau đó cũng vậy, lúc nào nói đến chuyện trên má cũng không khóc”. Và nếu lệ cứ ứa ra, thì “má chỉ nằm khóc chứ không kể gì hết”. Đau thương ấy, người mẹ một mình nuốt sâu vào đáy lòng, để lặng lẽ một mình chịu đựng sức thiêu đốt của một nỗi đau âm ỉ cháy. Đấy mới đúng là người mẹ Việt Nam, con người vì tình yêu, sẵn sàng một mình chịu đau, một mình chịu ướt.

Người mẹ nông dân bình dị đó, cũng như mọi người mẹ, đúng là hiện thân của yêu thương. Nhưng cảm hứng của Nguyễn Thi về tình yêu người mẹ thường vẫn là cảm hứng về một tình cảm có sức khiến con người không biết sợ, không biết chùn bước. Không thể không cảm động khi đọc lời chị kể hồn nhiên: “Tao dạn là nhờ ba mày. Ba mày bị Tây nó chặt đầu, tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong tới ấp ngòai, nó qua sông tao cũng qua, nó về quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay tao cắp rổ”. Ai ngờ truyền thống “yêu nhau tam tứ núi cũng trèo…” có ngày lại hiện ra dưới hình thức đau đớn, dữ dội, bạo liệt thế này? Một người vợ bồng con cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, một người mẹ hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà “hai bàn tay to bản” vẫn “phủ lên đầu đàn con đứng nép dưới chân”…, những hình ảnh ấy đáng được coi như biểu tượng về người mẹ ở một xứ sở mà cuộc sống quá nhiều khốc liệt nhưng rất đỗi kiên cường, hết sức đau thương nhưng vô cùng cao cả.

Kiên cường, cao cả vì dưới một núi khổ đau, người mẹ ấy vẫn là sự sống: đôi mắt mở to, đôi bắp chân tròn vo dính đầy sinh đất lội hết đồng này sang bưng khác, “con mắt tìm việc, bàn chân dò đường”, vừa làm công cấy công gặt vừa dò tình thế bọn lính làng.

*
* *

Một hình ảnh, một truyền thống như thế, tác giả muốn phải là bất tử, cho dù con người cụ thể có phải hi sinh. Người mẹ ngã xuống, nhưng trái đạn mà chị nhặt vào rổ bưng về để tiếp sức cho cuộc đấu tranh thì vẫn nóng nguyên. Người mẹ ngã xuống, nhưng dòng sông truyền thống kia vẫn chảy. Và hình ảnh chị lại hiện về trước hết trong Chiến, một trong những đứa con của gia đình.

Người con gái trẻ ấy mang vóc dáng của mẹ mình: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng…, thân người to và chắc nịch”. Vẫn cái vẻ đẹp phụ nữ mà Nguyễn Thi ưa thích đang tồn tại trong đứa con mà người mẹ ấy đã sinh thành – vẻ đẹp của những con người sinh ra ở đời để gánh vác, để chống chọi, để chịu đựng và để chiến thắng. Nhưng nói đến giống mẹ thì chưa bao giờ Chiến giống mẹ hơn cái đêm sắp xa nhà đi bộ đội. Phải đến đêm ấy, người ta mới thấy một cô Chiến biết lo liệu, toan tính việc nhà thật trọn vẹn trước sau, từ em út, nhà cửa, giường ván, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má. Chiến liệu việc y hệt má, “nói nghe in như má vậy”. Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng Út em trên giường ở trong buồng nói với ra đến lối hứ một cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi trong đêm, Việt đã không dưới ba lần thấy chị mình giống in người mẹ, có sai khác thì cũng chỉ ở chỗ chị “không bẻ tay rồi đập vào bắp vế chân mỏi” mà thôi. Chính Chiến cũng thấy mình trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ: “Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy”. Nguyễn Thi muốn cho ta hiểu: trong cái thời điểm thiêng liêng ấy, người mẹ sống hơn bao giờ hết trong những đứa con. “Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt…”. “Thác là thể phách…”, người mẹ ấy chỉ thác trong thể phách.
Ta hãy trở về với Chiến. Hơn em chỉ chừng hơn một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn so với Việt. Mà cũng gắn bó với lớp người đi trước hơn. Chiến có thể bỏ ăn để gánh vần cuốn sổ gia đình. Chiến không chỉ “nói in như má” mà còn học được cách nói “trọng trọng” của chú Năm. Nhưng so với thế hệ mẹ thì người con gái ấy là khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ cũng chảy được xa hơn khúc sông trước đó. Cho nên cũng dễ tìm ra những nét khiến cho Chiến khác mẹ mình. Cái khác ấy không chỉ ở chiếc gương trong túi mà Việt tưởng tượng có thể theo Chiến ra tận ngoài mặt trận, cũng không chỉ ở cái dáng trẻ trung “kẹp một nhúm tóc mai vào miệng” hay là tính hay cười. Người mẹ, trước nỗi đau mất chồng, đã không có dịp nào cầm súng. Còn Chiến, Chiến đi bộ đội để trả thù nhà, với quyết tâm như dao chém đá: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”. “Đã làm thân con gái…”, ra ở đời này không chỉ có “chí làm trai”.

Ở trên, ta đã nhiều lần nhắc đến nhân vật Việt, hình tượng xuất hiện nhiều nhất trên những trang văn. Việt được bạn đọc yêu thích trước nhất là ở cái vẻ lộc ngộc, vô tư của một câu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Chiến nhường nhịn em bao nhiêu thì Việt hay tranh giành với chị bấy nhiêu. Đêm trước ngày ra đi, Chiến nói với em những lời nghiêm trang thì Việt lúc “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay”. Vào bộ đội, Chiến đem theo tấm gương soi – cái vật tùy thân của một cô gái lớn – còn Việt, anh chàng đem đi… một chiếc súng cao su! Tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần đoạn đối thoại dài nhất và xuất sắc nhất trong toàn thiên truyện, và càng đọc càng thấy chịu tài tác giả. Sao mà ông có thể tái hiện lại sống đến thế lời ăn tiếng nói của một anh chàng tồ tồ, vô lo vô nghĩ. Những lời đối thoại ấy không câu nào giống câu nào mà sao câu nào cũng trúng phóc cái thần hồn thần tính của anh chàng Việt.
Nhưng sự vô tư không ngăn cản Việt trở nên một anh hùng. Ngược lại, nó cho cái chất anh hùng của Việt thêm đẹp, thêm độc đáo. Đọc truyện, ta cảm thấy hình như chưa lúc nào Việt hết thơ ngây của một con người không biết thế nào là khuất phục. Nên từ lúc còn bé tí, Việt đã dám xông vào đá cái thằng đã giết cha mình. Và vẫn dòng máy đỏ chảy trong anh tân binh Việt chỉ khi một mình, với đôi mắt không còn nhìn thấy gì, với hai bàn tay đau đớn vẫn quyết tâm ăn thua sống mái với quân thù: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Cứ vậy, người trai giản dị ấy thấy việc đi đánh giặc nó cũng tự nhiên như đi bắt ếch hay bắn ná thun, việc đánh giặc cho kỳ đến lúc trả xong thù nhà nợ nước nó là chuyện dĩ nhiên như thế, có gì đâu để mà bàn, để mà nghĩ ngợi…? Ấy thế mà xem ra Việt lại là người đi xa hơn cả trong dòng sông truyền thống. Không chỉ vì Việt là người lập chiến công lớn nhất. Mà còn vì thế hệ cha chú Việt đánh giặc đấy, nhưng vẫn lo tránh giặc. Còn Việt, ngay khi chỉ có một tấm thân trơ trọi và đầy thương tích, Việt vẫn là người đi tìm giặc. “Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Hồi bấy giờ, người ta thường nói đến khí thế tiến công cách mạng của thời đại. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công.

Tôi sẽ không nói nhiều về đoạn văn vẫn được nhiều người cho là hay nhất truyện: đoạn tả chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ mẹ, sang nhà chú. Chỗ hay nhất của đoạn văn hay nhất ấy có lẽ là cái không khí thiêng liêng nó hoán cải cả cảnh vật lẫn con người. Con đường quen thuộc bỗng thấy có thêm mùi hoa cam thoảng lại tự chân vườn. Còn Việt, cái không khí ấy biến anh thành con người khôn lớn. Lần đầu tiên Việt hiểu rõ lòng mình để thấy “thương chị lạ” và để thấy “mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Nhưng tôi muốn được để ý thêm đến chi tiết: chị em Chiến, dáng vóc khỏe, to, giang cả thân người lên nhấc bổng bàn thờ. Nghĩa là thế hệ sau đã cứng cáp, trưởng thành. Những đứa con trong gia đình đã đủ sức để bay xa, xa hơn cha mẹ.

*
* *

Nhân vật chú Năm trong truyện sau khi ví chuyện gia đình dài như dòng sông, còn nói tiếp: “Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm…, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”.
Điều đó có nghĩa là Nguyễn Thi, ở truyện ngắn này, chỉ nói về một con sông, nhưng chúng ta không thể chỉ thấy có một dòng sông. Nhà văn muốn ta phải nghĩ đến biển cả, đến đại dương của nhân dân, và nhân loại. Nhà văn muốn ta phải nghĩ đến không chỉ một gia đình, mà cả một Tổ quốc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ nỗi thương đau.

Chỉ có điều ở Nguyễn Thi, sự khái quát lớn lao trên sẽ không bay bổng trên đôi cánh của cảm hứng thi ca. Nhà văn muốn đứng trên hai bàn chân bấm chắc vào đất, vào hiện thực. Từ bỏ mọi sự khoa trương, nhà văn hết sức cố gắng để chi tiết, hình ảnh, ngôn từ… tất cả phải giống như nó vốn có ở đời, dẫu cho sự thực ở đời lắm khi tàn nhẫn. Bởi vậy, tôi sẽ không hùa theo ai đó trách Nguyễn Thi đã dựng lên những chi tiết ghê khiếp quá, như cảnh đòi đầu, với hình ảnh thằng bé Việt để “đầu ba dưới đất không lượm, cứ nhè cái thằng vừa liệng đầu mà đá”. Một hình ảnh như thế quả đáng để cho ta suy nghĩ, nhưng tuyệt nhiên không phải vì nó dữ dội, kinh khủng nếu đấy đúng là thực tại? Chỉ có là hình ảnh ấy hình như gợi lên một cái gì bất nhẫn. Nhưng đó lại là câu chuyện khác rồi…

In trong Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb GD, 1997.

Hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt cốt truyện, chủ đề của truyện Những đứa con trong gia đình


HOÀN CẢNH SÁNG TÁC, TÓM TẮT CỐT TRUYỆN, CHỦ ĐỀ CỦA TRUYỆN NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH

Bài viết liên quan
++++++++++++

* Hoàn cảnh sáng tác

Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ. Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung "rất Nguyễn Thi". Đó là:Yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù ngùn ngụt bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu rất cao- những con người dường như sinh ra để đánh giặc ;Tính chất Nam bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình nghĩa. Tác phẩm tiêu biểu của ông là : Người mẹ cầm súng , Những đứa con trong gia đình , …

Tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác với tư cách là một nhà văn- chiến sĩ ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng năm 1966. Sau được in trong Truyện và kí NXB Văn học Giải phóng, 1978.

* Tóm tắt tác phẩm:

Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mỗi thù sâu nặng với Mĩ-nguỵ: ông nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương đầu với những đe doạ, hạch sách của bọn giặc, cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị Chiến, thằng Út em, chú Năm, và một người chị nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống gia đình Việt đều được chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ của gia đình.

Việt và Chiến hăng hái tòng quân đi giết giặc. Việt nhỏ tuổi, đồng đội gọi thân mật là câu Tư. Anh rất gắn bó với đơn vị . Trong trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của địch nhưng bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa anh trở về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh,...

Tánh cùng tiểu đội đi suốt ba ngày mới tìm được Việt trong một lùm cây rậm và suýt nữa thì bị ăn đạn của “câu Tư . Việt được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến kể lại chiến công của mình. Việt nhớ chị chiến, muốn viết thư nhưng không biết viết sao vì tự thấy chưa thấm gì với thành tích của đơn vị và những ước mong của má.

* Chủ đề: 

Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

(ST)

Vẻ đẹp của người Nam bộ kháng chiến trong Những đứa con trong gia đình



VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI NAM BỘ KHÁNG CHIẾN TRONG NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
Bài viết liên quan
++++++++++++

Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.

Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình - quê hương - cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.

Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo. 

Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Néy đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đó còn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: "chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó...". Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước. 

Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vuợt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng. 

Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.

Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.

Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.
Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.

Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.

(Sưu tầm)