Jul 6, 2012

Đọc hiểu tác phẩm Người lái đò sông Đà


I. Tìm hiểu chung

1. Tiểu dẫn


- Người lái đò sông Đà là áng văn được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Sông Đà gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ phác thảo. Đây là kết quả của chuyến đi gian khổ mà hào hứng của Nguyễn Tuân tới miền Tây Bắc xa xôi, thoả mãn cái thú tìm đến miền đất lạ, tìm ra chất vàng mười trong tâm hồn người lao động, trên miền sông, núi hùng vĩ và thơ mộng.

- Nhà văn ngược dòng lịch sử dựng lại những tấm gương anh hùng của chiến sĩ cách mạng ở nhà tù Sơn La, những cán bộ hoạt động hồi Tây Bắc bị giặc chiếm, những đoàn dân công và bộ đội trong chiến dịch Điện Biên.

- Tác giả trở lại hiện tại tìm đến lớp người đi mở đường kiến thiết Tây Bắc, những gia đình lên Điện Biên lập nghiệp. Những cán bộ địa chất đi tìm mỏ quặng, những chiến sĩ biên phòng bảo vệ miền biên giới Tây Bắc. Những người lái đò dũng cảm và tài ba trên thác nước sông Đà, những người công nhân lâm nghiệp không tiếc mồ hôi, công sức từng ngày, từng tháng xây dựng miền Tây Bắc Tổ quốc.

Tập tuỳ bút Sông Đà còn thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: tài hoa và uyên bác. Người lái đò sông Đà là một trong những áng văn tiêu biểu nhất trong tập Sông Đà.

2. Văn bản

Đại ý


Đoạn trích miêu tả sông Đà vừa dằn dữ, vừa thơ mộng và con người Tây Bắc vừa cần cù dũng cảm, vừa khéo léo tài hoa.

II. Đọc hiểu văn bản

1. Bài ca về dòng sông thơ mộng, trữ tình


Nguyễn Tuân bắt mạch cảm xúc của mình từ một câu thơ trữ tình của Vla-đi-xláp Brô-ni-ép-xki nhà thơ cách mạng Ba Lan (1897 - 1962): “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” và câu thơ chữ Hán của Nguyễn Quang Bích “Chúng thuỷ... bắc lưu” (Mọi dòng sông... hướng Bắc).

Từ cảm hứng này, tác giả giới thiệu tài nguyên phong phú của Tây Bắc và nhấn mạnh: tài nguyên quí nhất của vùng này là con người. Con người bản địa và con người lên xây dựng Tây Bắc.

Tác giả đãkhắc hoạ được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh động hấp dẫn về một vùng rừng núi hùng vĩ, hiểm trở và rất thơ mộng. Những núi xa, núi gần, những thung lũng vàng lúa chín và bao thứ hương đua sắc. Tập trung miêu tả là con sông Đà.

Trở lại cảm xúc ban đầu, Nguyễn Tuân đưa ta trên một con thuyền lướt trên mặt sông mà lòng tự cất lên tiếng hát. Từ đây sông Đà như một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tuỳ bút.

+ Về phương diện địa lí, sông Đà dài gần 900km, “lượn rồng rắn” qua vùng rừng núi bao la, có độ dốc lớn. Vì vậy, lưu tốc của sông Đà lớn hơn nhiều những dòng sông khác. Tuy nhiên Nguyễn Tuân chỉ cung cấp một phần tri thức ấy, chủ yếu Nguyễn Tuân viết về sông Đà với khía cạnh văn hoá thẩm mĩ, bày tỏ cảm xúc của mình.

+ Sông Đà như một sinh thể có cá tính. Tác giả nhận xét “Con sông Đà hung bạo và trữ tình”. Từ thác bờ về xuôi sông Đà hiền hoà, nước chảy êm đềm, nó dịu dàng như biết bao dòng sông khác. Đây là cái nhìn không chỉ quan sát bình thường mà đầy khám phá, sáng tạo nghệ thuật: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đổt hương xuân”. Câu văn vừa có đường nét, hình khối và màu sắc, vừa có sự so sánh và cảm nhận lại như hát lên trong giọng điệu. Ban đầu giọng điệu ấy có âm vực cao, chậm lại, kéo dài ra, lan toả trong không gian đến bất tận.

Người ta có cảm giác từ trên thượng nguồn, sông Đà chảy ngoằn ngèo, dích dắc giữa điệp trùng núi đá và rừng cây đại ngàn nhưng càng về xuôi, sông Đà càng êm ả thẳng dòng.

- Tác giả miêu tả màu sắc của sông Đà biến đổi theo từng mùa: “Mùa xuân nước sông Đà màu ngọc bích”, tác giả nhấn mạnh: “chứ không xanh như màu cánh hến” tức là màu xanh đục của sông Gâm, sông Lô (cả ba con sông này đều chảy qua miền rừng núi Tây Bắc Bắc Bộ). Sự so sánh về màu sắc làm cho dòng sông có vẻ đẹp riêng (Ngọc bích: vừa trong lại vừa có sự phản chiếu óng ánh). “Mùa thu nước sông Đà lừ đừ chín đỏ”, tác giả lại so sánh: “Lừ lừ chín đỏ như da người bần đi vì say rượu bữa”. Dòng sông có vẻ đẹp riêng của mỗi mùa. Cái hay của nhà văn Nguyễn Tuân không chỉ ở vốn văn hoá, vốn từ vựng phong phú, trí tưởng tượng bay bổng mà còn ở cảm xúc, ở thái độ: “chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ”. Nhà văn đã đứng trên lập trường dân tộc để hạ những dòng này. Những dòng, những chữ thấm sâu tình đất nước. Ta mới hiểu vì sao Nguyễn Tuân chỉ học hết bậc thành trung rồi bị đuổi, chỉ vì tham gia vào việc phản đối giáo viên người Pháp nói xấu Việt Nam.

- Đó là các đoạn văn

+ “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà” 

+ “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như ở đời Lí, ... cổ tích tuổi xưa”.
Ta tưởng như được chứng kiến cảnh yên tĩnh của sông Đà. Cách so sánh của Nguyễn Tuân “một bờ tiểu sử”, “một nỗi niềm cổ tích” có sức khêu gợi sâu xa, khắc hoạ vẻ đẹp hoang sơ, con sông chảy qua tháng năm lịch sử mang dấu ấn văn hoá, ngàn xưa của cha ông. Văn Nguyễn Tuân cổ kính, đĩnh đạc, trong nghiêm mà hiện đại là thế.

+ Có những liên tưởng giàu chất thơ: “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cảnh thiên nhiên thật sống động.

Nguyễn Tuân đưa người đọc về với những huyền thoại qua câu ca dao. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao Sơn Tinh, Thuỷ Tinh: “Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen” và câu thơ của Lí Bạch: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.

Nhìn ngắm sông Đà, suy nghĩ về sông Đà bằng nhiều thời gian và không gian khác nhau. Thiên nhiên sông Đà đã ùa vào lòng nhà văn để tâm hồn cẩt cánh thành lời rất đỗi trữ tình.

2. Sông Đà, con sông Tây Bắc dằn dữ, hung bạo
Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà dằn dữ, hung bạo ở mấy chi tiết sau:

+ Thác nước

+ Đá dựng đứng thành

+ Sự hợp tác của gió, của sóng và của đá

+ Những hút nước

- Cảnh 2 bờ sông “Đá hai bên bờ sông dựng thẳng đứng như xây vách thành”. Cả ngày mặt sông không ánh nắng, “Ở đây người ta chỉ nhìn thấy mặt trời lúc đúng ngọ”. Cách miêu tả này tạo được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút. Chưa hết “Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. Dòng chảy bị thu hẹp. Hẹp đến nỗi đứng bên này nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia”. Đặc biệt khi nhà văn miêu tả: “Ngồi trong khoang dò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy như mình đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Nhà văn đã sử dụng nhiều giác quan để miêu tả, không chỉ có thị giác mà cảm xúc cộng với sự so sánh mới mẻ, độc đáo. Vách thành dựng đứng gợi sự hiểm trở hùng vĩ, lòng sông hẹp khiến người đọc nghĩ tới lưu tốc của dòng chảy mạnh đến mức nào.

- Tính chất hung bạo của sông Đà còn thể hiện qua thác nước. Nhân cách hoá trong miêu tả của Nguyễn Tuân, biến thác nước thành những bầy thuỷ quái hung hăng, bạo ngược lúc thì “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”.

Lạ thay, chỉ có Nguyễn Tuân mới có cách miêu tả so sánh như thế này: “Thế rồi nó rống lên như một tiếng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.

Tiếng một ngàn con trâu mộng rống lên vì bị đổt trong rừng lửa đã là đặc biệt. So tiếng réo của lửa như tiếng thác gầm thì chỉ có Nguyễn Tuân mới so sánh tài hoa như vậy. Ta có đi qua rừng cháy hoặc nơi đồng bào đổt nương làm rẫy mới thấy Nguyễn Tuân miêu tả đúng lắm. Nhưng tài hoa ở chỗ nước và lửa xưa nay vẫn kị nhau (thuỷ - hoả), có cài này thì cái kia không tồn tại. Vậy mà nó hội tụ ngay trong văn của Nguyễn Tuân, thật tài hoa.

- Sự phối hợp giữa gió và sóng tạo nên sức mạnh uy hiếp “mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, nước sô đá, đá sô sóng... tóm được qua đấy”. Câu văn ngắn, tạo được nhiều điệp từ, điệp cấu trúc làm tăng nhịp gấp gáp như chuyển động của sóng và gió.

- Đáng chú ý là những hút nước (xoáy lớn) “Trên sông có những hút nước... để làm móng cầu”, “nước thở và kêu” tựa như người ta rót dầu. Hút nước nguy hiểm “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang... ở khuỷnh sông dưới”. Thật khủng khiếp và dữ dội.

- Đá ở sông Đà đã “mai phục hàng ngàn năm trong lòng sông”. Khi có thuyền đến thì chúng bèn “nhổm cả dậy để đòi ăn chết cái thuyền”. Đã được miêu tả như con người. Những kẻ lúc nào cũng muốn gây tai vạ cho bất cứ ai “nó đứng, nó ngồi, nó nằm tuỳ theo sở thích”, “đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Đá ở sông Đà đang bày thành “thạch trận”, Nguyễn Tuân gọi đó là “bong ke chìm” và “pháo đài nổi”. Kiến trúc uyên bác giúp Nguyễn Tuân miêu tả ở đoạn này thật sinh động: “Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là... thì tiến gần vào”.

Nguyễn Tuân muốn tạo một không gian vừa thơ mộng trữ tình vừa dữ dằn hung bạo để cho người lao động xuất hiện trên cái nền của không gian ấy. Người lái đò sông Đà xuất hiện trong bối cảnh đầy thử thách.

3. Người lái đò sông Đà

- “Thạch trận bày song con thuyền lao tới”

- Sau hàng chục năm xuôi ngược trên sông Đà, ông đò vẫn nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả những luồng nước, của tất cả con thác hiểm trở”, “ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần nông thần đá”, “thuộc qui luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở” nên ông lái rất tự tin.

- Ông đò còn là người có tài nghệ leo ngềnh, vượt thác

- Ông đò còn là người có ngoại hình của con người gắn bó với nghiệp “cánh tay dài lêu nghêu như cái sào”, “chân khuỳnh khuỳnh”, giọng nói ào ào như thác nước...

Nguyễn Tuân miêu tả cuộc vượt thác của ông lái đò

+ Ông lái đò như một viên tướng tả xung, hữu đột qua nhiều cửa, nhiều vòng mà ở cửa nào cũng có những tên đá tướng hung tợn chắn giữ, Ông đò chỉ sơ suất nhỏ cũng có thể bị trả giá bằng án mạng.

+ Mặt trước hò la xông tới định bẻ gẫy cán chèo “thác nước thúc mạnh vào hông thuyền”, “như đô vật tóm lấy thắt lưng ông đò”, “nhưng trên cái thuyền sáu tay chèo vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của ông lái”. Ông bình tỉnh và tự tin biết chừng nào.

+ Ông nén cái đau về thể xác (thác nước đã đánh trúng đòn vào chỗ hiểm), điều khiển con thuyền vượt qua “trùng vi thạch trận”. Ông lái đò có những động tác nhanh, mạnh, táo bạo nhưng chuẩn xác: “bám chắc lấy luồng nước... mở đường tiến”. Trí tưởng tượng và vốn từ phong phú, Nguyễn Tuân tạo được đoạn văn mang đầy không khí trận mạc, sinh động cuộc chiến đấu của người lái đò với thác nước, với tầng lớp mai phục mà ông lái đò ngày nào cũng phải đối mặt với Đà giang.

- Ông lái đò rất thuần phục, giỏi giang trong nghề leo ghềnh, vượt thác “còn một trùng vây thứ ba nữa... sóng xèo xèo tan trong trí nhớ”. Cách sử dụng từ ngữ vừa là tượng hình, vừa tượng thanh. Cách so sánh, câu văn ngắt ra nhiều để diễn tả động tác trong cùng một khoảng thời gian của người lái đò. Đó là tài hoa của người nghệ sĩ. Dù bất cứ nghề nào, con người bộc lộ tài khéo, điêu luyện, con người đó là nghệ sĩ. Nguyễn Tuân quan niệm như vậy.

- Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa và ông còn có tâm hồn phong phú, giản dị mà thanh cao. Nhà đò nghỉ lại trong hang đó, “đốt lửa trong hang, nướng ống cơm lam, và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá, hang cá mùa khô (...) cũng chẳng thấy ai bàn một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua (...) cuộc sống của họ ngày nào cũng phải chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sồng từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì hồi hộp đáng nhớ. Họ nghĩ thế lúc ngừng chèo, phải chăng ông lái đò cùng đồng nghiệp của mình thiết tha gắn bó với nghề nghiệp. Tài hoa nghệ sĩ còn ở chỗ đó.

- Anh hùng không chỉ xuất hiện đối mặt với kẻ thù trong tiếng bom gầm, đạn réo mà ngay trong cuộc sống lao động hằng ngày của những con người giản dị, không mang một cái tên chỉ là ông lái đò, ông đò, nhà đò, người lái đò đang có mặt nơi ghềnh thác đèo heo hút gió, xa xôi của Tổ quốc. Họ đã làm nên thiên anh hùng ca lao động. Họ đáng trân trọng biết bao.

(Sưu tầm)

Phân tích hình tượng con sông Đà hùng vĩ , dữ dội và thơ mộng trữ tình



Phân tích hình tượng con sông Đà hùng vĩ , dữ dội và thơ mộng trữ tình

Xem thêm: 
=======

I. MB 

Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa , uyên bác , cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống . Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút . Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” . Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông . 

II . TB

1. Giới thiệu chung .


Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” dược in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thơi, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới : chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.

2. Phân tích hình tượng dòng sông Đà . 

Trước hết , con sông đà được Nguyễn Tuân miêu tả là dòng sông hung bạo , dữ dội . Khi hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một sẵn sàng cướp đi mạng sống con người, có tâm địa độc ác như người dì ghẻ. Để khắc hoạ tính cách của sông Đà, tác giả đã dựng lại khúc sông nguy hiểm . Đó là đoạn cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành: chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng , sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây. Lại một đoạn sông khác, sông Đà là cái hút nước xoáy tít. Có những thuyền đã bị nó hút tụt xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi dến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới..Nhưng dữ dội nhất là ở những thác đá. Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh. Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe doạ bởi tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo. Tác giả đã dựng lại cuộc thuỷ chiến giữa sông Đà và người lái đò để lột tả cho được tính hung bạo của nó và tài nghệ của người lái đò. Thác đá được xếp thành từng tuyến mà nhà văn gọi là thạch trận, nhằm ăn chết cái thuyền đơn độc. Ở tuyến một, thác đá mở ra năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Ở tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu ngạn. Ở tuyến ba, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng luồng sinh để vượt qua. 


Bên cạnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân con sông Đà lại rất trữ tình , gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. Khi trữ tình, sông Đà hiền hoà, mềm mại, huyền ảo như mái tóc của một phụ nữ kiều diễm: con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mây mù khói núi Mèo nương xuân.

Không chỉ đẹp ở hình dáng, sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, mà tác giả đã bao lần dày công quan sát mới nói hết được vẻ độc đáo ấy: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích (nghĩa là một màu xanh trong và sáng); mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đổ như mặt người bâm đi vì rượu bữa . Đặc biệt là không khí hoang dại, tĩnh lặng : Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đề lột tả không khí đầy thơ ấy.Nguyễn Tuân đã tả đàn hươu ngẩng đầu ngơ ngác mơ một tiếng còi sương, và cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu, gợi tâm sự của người tình nhân chưa quen biết ! Lúc này, không thấy đâu con sông Đà diện mạo và tâm địa độc ác, mà chỉ thấy tình cảm của dòng sông đối với con người như một cố nhân, xa thì thấy nhớ thương, gặp lại thì thấy mừng vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Còn con sông lại mang bao rung động yêu thương như nhớ những hòn đá xa xôi để lại nơi thượng nguồn . Khi tả con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn nhẹ nhàng, êm ái. Câu ngắn, vị ngữ diến tả trạng thái bình lặng, để lại trong lòng người âm hưởng mênh mang, thơ mộng .

III . Kết bài 

Trong tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” , nhà văn Nguyễn Tuân đã rất thành công trong việc sử dụng nhiều thuạt ngữ của các ngành nghề khác nhau nhằm miêu tả vẻ hùng vĩ , thơ mộng của con sông Đà và mở ra bao liên tưởng độc đáo , bất ngờ trong tâm trí người đọc . Qua đó , ta thấy được tài hoa , vốn văn hoá uyên thâm và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân . Đồng thời ta còn thấy được cảm hứng ngợi ca , tự hào về chất vàng thiên nhiên , về giang sơn gấm vóc Việt Nam của tác giả . 

(Sưu tầm)

Phân tích hình tượng người lái đò trên sông Đà



Phân tích hình tượng người lái đò trên sông Đà
Xem thêm: 
=======

I . Mở bài 


Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa , uyên bác , cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống . Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút . Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” . Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông . 

II . TB

1. Giới thiệu chung .


Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” dược in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thơi, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới : chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.

2. Phân tích nhân vật người lái đò . 

Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải , có nhiều kinh nghiệm đò giang , có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một :

“Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đat nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền , một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn… 

Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy , người lái đò chỉ có một cán chèo , một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái . Tuy nhiên , kết cục cuối cùng , người lái đò vẫn chiến thắng , khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé . 

Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh , làm lụng âm thầm , giản dị , nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ , trở nên lớn lao , kì vĩ , trở thành đại diện của CON NGƯờI . Người lao động nhờ ý chí kiên cường , bền bỉ , quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên . Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc . 


Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét : Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân

III . Kết bài 

Tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân . Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị , anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây . Qua đó , nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước , niềm tự hào hứng khởi , gắn bó tha thiết với non sông Việt Nam . 

(Sưu tầm)

Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân)



Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân)




I. Mở bài:

- Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước …

Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.

II. Thân bài:

1. Khái quát:


- “Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân.
- Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958.

- Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

- Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có N.T mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước N.T có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình.

2. Phân tích:

a. Sông Đà hung bạo:

- Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:

+ “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”

+ Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ can nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách…

+ “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện” 

-> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như N.T luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.

- Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm …” -> bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.

- Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên …” những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác” -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.

- Âm thanh thác nước sông Đà: 

Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.

+ Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa … rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…” -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, N.T quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.

- Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả một chân trời đá … mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.

+ Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền”… 

+ Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn… 

+ Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa. 

-> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút VN.

b. Sông Đà – trữ tình:

- Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo …”

- Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa:

+ “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”.

+ Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa …” -> Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

- Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang “sắp đổ ra sông Đà”. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” …

- Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê”.

-> Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có – Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.

III. Kết bài:

Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút “Người lái đò sông Đà” chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.

(Sưu tầm)

Phân tích sự thể hiện của phong cách Nguyễn Tuân qua bút kí “Người lái đò Sông Đà”



Đề bài: Phân tích sự thể hiện của phong cách Nguyễn Tuân qua bút kí “Người lái đò Sông Đà”

Bài làm
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo. Bất cứ tác phẩm nào của ông cũng in đậm dấu vết con người ông- con người như một pho tiểu thuyết hấp dẫn kể mãi không hết. Mỗi khi gặp được đối tượng miêu tả phù hợp, ngòi bút của ông như nở hoa. Lúc đó, ta được đọc những kiệt tác.

Nguyễn Tuân nổi tiếng trong đời và trên văn đàn trước hết như một con người của chủ nghĩa “xê dịch” và ưa viết về những chuyện “xê dịch”. Những cái gì gây nên cảm giác mạnh là nguồn sống của văn ông. Ông đến với sông Đà như đến với một người bạn tương đắc. Sự dữ dội, mãnh liệt và thơ mộng tuyệt vời của nó thu hút ông hết sức mạnh mẽ. Không phải ngẫu nhiên mà ông dốc toàn bộ tài hoa ngôn ngữ của mình ra để tái hiện nó và làm truyền lan đến người đọc niềm thán phục, ngưỡng mộ sâu sắc đối với sông Đà và người lái đò sông Đà (cũng là cảnh và người Việt Nam rất đỗi đáng yêu, đáng quý).

Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân , hai đặc tính nổi bật của sông Đà là “hung bạo “ và “trữ tình” hiện lên đầy ấn tượng. Sông Đà hung bạo với những con thác vô cùng “độc dữ , nham hiểm”, với những “hút nước” chết người và vô vàn “thạch trận” quyết không cho con người vượt qua.Qua tai nghe của tác giả, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích , giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một nhàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa đang gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.

Tương xứng với con sông Đà là hình ảnh người lái đò sông Đà. Đối với Nguyễn Tuân, đây cũng là hình ảnh gây cảm giác mãnh liệt phi thường. Người lái đò đã dũng cảm vượt qua vòng vây trùng trùng của thác nước: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghè cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Cứ theo nhan đề tác phẩm, chính người lái đò mới là hình tượng trung tâm của bút kí này. Cực tả sự dữ dôi của thác nước sông Đà chính là mọt cách Nguyễn Tuân xưng tụng chiến công phi thường của con người lao động ấy. Ở đây, sông và người đã thực sự thống nhất với nhau trong tư cách là một nguồn kích thích lớn đối với ngòi bút của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân là một nhà văn suốt đời mê cái đẹp và mải miết truy tìm cái đẹp. Ông ưa “quan sát, khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật và con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ông đã mô tả cực kì rõ nét với giọng văn đầy sảng khoái vẻ đẹp của sông Đà. Đẹp trong sự dữ dội hào hùng. Đẹp trong sự hiền hòa êm ả. Nhìn khái quát , sông Đà là một tuyệt tác của thiên nhiên, nó “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Cái cảnh “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” cũng thật thi vị , gieo vòa lòng người những cảm giác phấn khíc, hân hoan. Với ông lái đò, Nguyễn Tuân cũng có thiên hướng mô tả ông như một nghệ sĩ tài hoa đã mưu mẹo, khéo léo vượt qua muôn vạn thác ghềnh. Đây là cái khéo léo của sự thuần thục trong nghề do “ Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Theo quan niệm của Nguyễn Tuân, bất cứ hành động nào đạt tới trình độ nhuần nhuyễn các kĩ năng kĩ xảo cũng đêì có thể được gọi là đẹp và có thể ngợi ca.

Nói đến phong cách Nguyễn Tuân, không thể không nói đến sự uyên bác và tài hoa luôn bộc lộ hết sức đậm đà trên từng trang viết của ông. Do đọc nhiều, biết nhiều và đặc biệt có vốn quan sát trực tiếp rất mực giàu có, trong khi miêu tả các sự vật, sự việc ông đã vận dụng hàng loạt kiến thức thuộc nhiều nghành nghệ thuật khác nhau, cốt làm sao nổi bật cái được nói đến và thể hiện hết những điều mình cảm nhận được. Ông không chỉ nhìn sự vật bằng con mắt của nhà văn mà còn bằng con mắt của người làm phim, người họa sĩ, nhạc sĩ, người am tường vũ đao, hay nghệ thuật sân khấu. Đúng hơn, con mắt của nhà văn của ông là được hóa thân trong con mắt của nhiều “nhà” khác. Để diễn tả sinh động những “hút nước” sông Đà, ông đã tưởng tượng ra cảnh quay của một nghệ sĩ điện ảnh với thủ pháp quay ngược ống kính. Cũng có khi ông đã nhìn sông Đà theo con mắt của một kĩ sư vẽ bản đồ để thấy nó giống như một “ cái dây thừng ngoằn ngoèo” vắt trên cơ thể núi non đất nước. Còn với sự mô tả màu nước sông Đà, ông đã chứng tỏ mình là một người rất có con mắt hội họa:”Mùa xuân dòng xanh ngọc bích,chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gầm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như mặt của một người bầm đi vì rượu bữa…”. Đặc biệt hơn, trên trang viết của mình, ông đã điều động một cách hết sức thoải mái những kiến thức quân sự, võ thuật nhằm tạo nên một”trận thắng” rất ngoạn mục của nghệ thuật trong việc diễn tả cuộc giao tranh hào hùng giữa con người và thác dữ.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân là bậc thầy của thể văn tùy bút. Tùy bút của ông phóng túng, miên man , giàu liên tưởng bất ngời , giàu ví von so sánh táo bạo và ngôn ngữ thiên biến vạn hóa. “Người lái đò sông Đà” là một ví dụ điển hình của nghệ thuật tùy bút này. Đọc nó, ta bị lôi cuốn không sao cưỡng nổi, động thời cũng có cảm giác ngợp vì sự tuôn trào của nguồn văn tưởng chừng không bao giờ cạn. Cách nói của Nguyễn Tuân đầy ấn tượng, hết sức khó quên: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khói ánh vào cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lự lự trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành:” Hỡi ông khác sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy tiếng còi sương?”. Dĩ nhiên, cũng có lúc ông “ mải miết kể lể” theo câu chuyện “khá xôm” của mình( chữ dùng của Nguyễn Tuân khi nhận xét về truyện thiếu nhi của Võ Quảng) mà quên đi sự sốt ruột của độc giả. Nhưng có một điều chắc chắn rằng nếu chấp nhận được cái tạng văn ấy của Nguyễn Tuân, hẳn ta sẽ thấy không có một câu văn nào ông viết ra lại không đưa đến cho độc giả một thông tin gì đầy bổ ích, thú vị.

“Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân . Nó thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của người viết cũng như lòng yêu say mê vẻ đẹp non sông đất nước ở nhà văn này. Tác phẩm xứng đáng là một món quà tặng quý giá mà Nguyễn Tuân dâng cho Tổ quốc


(sưu tầm)