Jul 7, 2012

Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu

Mảnh trăng cuối rừng


Tác giả

Nguyễn Minh Châu là nhà văn quân đội. Quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, sinh năm 1930, mất năm 1989. Tác phẩm đầu tay: “Cửa sông” (1967). Các tác phẩm khác: “Những vùng trời khác nhau” (1970), “Dấu chân người lính” (1972)… “Bến quê” (1985), “Cỏ lau” (1983),…

Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học của ta những năm gần đây…

Xuất xứ

Truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” rút từ tập truyện ngắn “Những vùng trời khác nhau”, xuất bản năm 1970.

Tóm tắt truyện

Chuyến xe đêm nay đưa hàng ra tiền phương, Lãm được phép chỉ huy trả hàng xong, rẽ đến thăm chị gái và người yêu ở đơn vị thanh niên xung phong. Thật phiền hà, trên xe lại có một cô gái đi nhờ xe lên cầu Đá Xanh, cô ta đi gặp người yêu! Cô gái xinh đẹp cũng tên là Nguyệt như tên người yêu của anh. Trăng đầu tháng, mảnh trăng cuối rừng dát lên con đường chiến lược. Trăng sáng chiếu vào khung cửa xe, làm cho khuôn mặt cô gái ngời lên vẻ đẹp lạ thường. Quá nửa đêm, xe đến ngầm. Cô gái không xuống xe đi về đơn vị, cô đã giúp Lãm đưa xe vượt ngầm. Máy bay giặc từng đàn ào tới ném bom thả pháo sáng, bắn 20 li đỏ lừ. Cô gái bị hơi bom xô ngã dúi, nhưng cô đã dũng cảm đẩy chàng lái xe vào chỗ nấp còn mình đứng che chắn phía ngoài. Chiếc xe bén lửa. Hai người vừa dập lửa vừa cho xe phóng lên. Nguyệt phải dò đi trước dẫn đường. Vượt khỏi trọng điểm, Lãm mới biết Nguyệt bị thương, máu chảy đỏ cả cánh tay áo xanh. Cô ướt như một con công vừa tắm thế mà vẫn cười rất tươi. Trong lòng anh lái xe trẻ dấy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục. Cô gái chia tay Lãm đi ngược lại phía ngầm…

Chuyến ấy giao hàng xong, đã quá muốn, Lãm lỡ hẹn. Chuyến xe sau, anh mới vào thăm chị gái. Anh mới biết cô gái đi nhờ xe đêm ấy chính là người yêu từng hẹn ước…

Chủ đề

Tâm hồn trong sáng, tình yêu thủy chung, dũng cảm chiến đấu là phẩm chất cao đẹp của người con gái Việt Nam trong những năm đánh Mĩ ác liệt.

Cô gái thanh niên xung phong: Nguyệt

- Duyên dáng, hồn nhiên, đẹp: “đôi gót chân bóng hồng”, “mái tóc thơm ngát, dày và trẻ trung làm sao”, “Khuôn mặt tươi mát, ngời lên và đẹp lạ thường dưới ánh trăng… Cách ăn nói và đối đáp rất chững chạc, đàng hoàng, tự tin.

- Rất tình nghĩa: người đi nhờ xe trở thành bạn đường rồi lúc đưa xe ra ngầm trở thành đồng đội chiến đấu. Câu nói: “Anh đã cho em đi nhờ xe, lúc khó khăn lại bỏ anh ư?” thể hiện một tấm lòng và cách ăn ở thủy chung tình nghĩa.

- Dũng cảm, lanh lợi, quyết đoán. Biết là giặc ném bom tọa độ. Bom nổ cô đã đẩy Lãm vào chỗ nấp, còn mình đứng chắn phía ngoài. Lúc lội qua ngầm buộc tời giúp Lãm kéo xe lên. Lúc chỉ đường cho xe chạy trong bom đạn. Đến quãng khó và tối thì cô “nhảy xuống đi dò trước” làm lộ tiêu cho Lãm lái xe vượt lên thoát hiểm. Một câu nói cao cả, thiêng liêng: “Anh bị thương thì xe cũng mất, anh cứ nấp đó”.

- Bị thương mà vẫn bình tĩnh lạc quan, vẫn tươi cười: “Anh cứ yên tâm vết thương chỉ sượt da thôi. Từ giờ đến sáng, em có thể đi lên tận trời được”.

- Bị thương, bị ướt mà vẫn đẹp như con công mới tắm. Và cô đã làm dấy lên trong lòng chàng lái xe “một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục”.

- Tình yêu: hứa hôn một cách lãng mạn, đợi chờ thủy chung, đi trong cảnh bom đạn đến điểm hẹn gặp người yêu chưa hề gặp mặt!. “Trong tâm hồn người con gái bé nhỏ, tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn giội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi ư?”

- Đúng như chị Tính đã nói: “Trên đời khó tìm được một người con gái như thế!” Vậy, cô Nguyệt tiêu biểu cho những phẩm chất cao đẹp gì của người con gái Việt Nam thời đánh Mĩ?

Một không gian nghệ thuật thơ mộng, lãng mạn, tráng lệ

- Con đường chiến lược đầy bom đạn trở thành con đường trăng, con đường lứa đôi đi tìm hạnh phúc: “Xe tôi chạy trên lớp sương bồng bềnh. Mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối trời, sáng trong như mảnh bạc. Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng trăng… Từng khúc đường trước mặt cũng thếp từng mảnh ánh trăng…”. Đó là vầng trăng và thiếu nữ. Thiếu mảnh trăng, câu chuyện tình này kém hay, thiếu hẳn vẻ đẹp lãng mạn.

- Tiếng chim “bắt cô trói cột” mơ hồ, gần xa của đôi trống, mái gọi nhau suốt đêm giữa rừng già – cũng đầy chất thơ. Nguyệt và Lãm cũng đang đuổi bắt, và kiếm tìm người bạn tình trong bom đạn, khác nào đôi chim trống mái kia? “Trên đầu chúng tôi, khoảng trời đêm trên cao nguyên trở nên trong vắt, cao lồng lộng, trong khoảng sâu thẳm nổi lên một tiếng chim mơ hồ”…

Cảnh tượng đoàn xe xích kéo pháo 57 mới khỏe làm sao. Đường sá, núi non cứ rung chuyển ầm ầm. Đúng là cảnh tượng hùng vĩ, tráng lệ: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!...”

- Thiếu chi tiết ấy, truyện ngắn này sẽ trở nên sơ lược, tầm thường!

Ý nghĩa của nhan đề truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu



Bài viết liên quan
+++++++++++
Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa được cảm nhận qua con mắt người nghệ sĩ như thế nào


 Ý nghĩa của nhan đề truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Chiếc thuyền ngoài xa” là nhan đề một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu, trước in trong tập Bến quê (1985), sau được dùng đặt tên cho cả tập truyện ngắn gồm 15 truyện do nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành năm 1987. Thiên truyện được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học lớp 12 phổ thông, cả ban khoa học xã hội – nhân văn lẫn ban cơ bản. Đặt vấn đề tìm hiểu ý nghĩa nhan đề một truyện ngắn hoàn toàn không phải là một cái gì mới mẻ bởi lẽ sự hoàn chỉnh về nội dung được thể hiện ngay trong ý nghĩa mà đầu đề văn bản chỉ ra, đặc biệt là với các văn bản nghệ thuật vốn thường mang những nhan đề hàm ẩn. Vậy nhan đề ấy - Chiếc thuyền ngoài xa- có ý nghĩa như thế nào?

Những nhan đề loại này đòi hỏi người tiếp nhận phải suy nghĩ, liên tưởng mới có thể hiểu được ý nghĩa của chúng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người cho rằng nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản.

Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu có vinh dự là người “ thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” ( Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học sau 1975. Trong nhà trường, hai tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã được đưa bộ sách cải cách trước đây ( Bức tranh ở cấp trung học cơ sở và Mảnh trăng cuối rừng ở cấp trung học phổ thông) và lần thay sách này, giáo viên và học sinh lại được tiếp cận hai tác phẩm khác- Bến quê ở cấp trung học cơ sở và Chiếc thuyền ngoài xa ở trung học phổ thông.

Hầu như các truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông đều mang những nhan đề vừa cụ thể  lại vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nếu như Mảnh trăng cuối rừng vừa là một hình ảnh thực được miêu tả trong truyện và trở đi trở lại nhiều lần, thành hình ảnh nổi bật và bao trùm toàn bộ khung cảnh của câu chuyện, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho nữ nhân vật chính- Nguyệt thì “ Chiếc thuyền ngoài xa” cũng có phần giống như thế


1- Chiếc thuyền ngoài xa là chiếc thuyền thực hay chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật?

Truyện gồm 5 phần. Phần đầu nói về chiếc thuyền thực tại một vùng đầm phá ven biển miền Trung và phần cuối hoàn toàn nói về chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật, một trong 12 cảnh tĩnh vật thể hiện chủ đề thuyền và biển cho một cuốn lịch năm mới.

Phần vào chuyện kể trọn vẹn sự cần thiết phải có bức ảnh. Nguyên là người trưởng phòng của nhân vật “ tôi” ( tên là Phùng - nhân vật người kể chuyện) “là người sâu sắc , lại cũng lắm sáng kiến”, anh ta đã đề xuất yêu cầu “ Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Suốt năm tháng ròng làm việc khá thông đồng bén giọt, tổ nhiếp ảnh nghệ thuật đã mang về không biết cơ man nào là ảnh nhưng cũng chỉ có 11 bức được lọt vào cặp mắt xanh của viên trưởng phòng “ sâu sắc nước đời”. Một bức ảnh thiếu hụt oái oăm kia được trưởng phòng tin cẩn giao cho “ tôi” phải săn tìm cho được. Mà là tấm ảnh chụp có “ sương biển” giữa mùa tháng bảy – dường như thường “ chỉ có bão táp với biển động”. Thật là một vụ gieo trồng trái thời vụ vì “tôi” quá biết “ Muốn lấy sương thì phải nghĩ đến từ tháng ba cơ!”.

Nhưng rồi “ khi nên trời cũng chiều người”, “ tôi” đã trở lại vùng biển chiến trường xưa, cách Hà Nội sáu trăm cây số” và vác máy nằm “phục kích” ở chính cái nơi mà “ dường như trong suốt dải bờ biển khắp cả nước, chỉ ở đây vào giữa tháng bảy là còn sương mù”. Đây cũng còn là quê của một đồng đội cũ của “ tôi”, giờ đang là Chánh án toàn án huyện. Thật là gồm đủ thiên thời , địa lợi , nhân hoà”. Và “ tôi” đã bỏ qua nhiều cảnh có ‘ không khí vui nhộn hơi thô lỗ và thật hùng tráng” để chớp lấy cái khoảnh khắc “ đắt” trời cho”. Đó là cảnh “ trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn và trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ…”. Nhà nghệ sĩ dạt dào một cảm hứng nghệ thuật, trải qua một khoảnh khắc yên-sĩ –phi –lí thuần tuyệt diệu: “ toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tòan bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? (…) . Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.”. Và tuyệt tác đã ra đời trong sự hưng phấn nghệ thuật - “ cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Rất cần chú ý thành phần phụ chú “ do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” trong lời kể chuyện. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền giữa biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời

Như thế , xét riêng về công vụ, nhiệm vụ của “tôi” lúc này đã hoàn thành. “Tôi” đã có cảnh thuyền và biển trong sương đúng như đặt hàng của trưởng phòng, mặc dù giữa mùa tháng bảy! Và ‘ tôi” đã có thể ung dung “ nhảy lên tàu hoả trở về”. Nếu khéo liên hệ một tí, ta dễ thấy nếu như “ tôi” về ngay lúc đó khác nào cô Nguyệt ( trong Mảnh trăng cuối rừng) xuống xe ở cầu Đá Xanh.

Phần đầu truyện như thế đủ cho người đọc biết xuất xứ của bức ảnh nghệ thuật đặc sắc trên cuốn lịch năm mới kia ra đời thế nào. Và nếu nghĩ sâu xa hơn thì cũng cần bấy nhiêu ấy cũng đủ cho bộ môn lí luận nghệ thuật khái quát về công phu lao động của nghệ sĩ.

Phần kết truyện cho biết người trưởng phòng rất hài lòng với bức ảnh và bức ảnh không chỉ có tuổi thọ ngang với một cuốn lịch năm mà “mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Mở và kết truyện như vậy cho thấy, chiếc thuyền trong “ chiếc thuyền ngoài xa” là chiếc thuyền vừa có thực trong đời , vừa là chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật và nó cũng chính là một chi tiết nghệ thuật đắt, không dễ trong đời cầm máy “ tôi” đã có được may mắn thứ hai.


2- Tại sao lại là “chiếc thuyền ngoài xa” ?

Theo dòng kể của ‘ tôi” rõ ràng chiếc thuyền được chụp trong một cự li tương đối gần – “ một chiếc thuyền lưới vó…đang chèo thẳng vào trước mặt tôi”- nhà nghệ sĩ nhìn rõ cả “những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó”. Người thưởng thức bức ảnh thông thường chắc không ai không cảm nhận chiếc thuyền đang được chụp trong một cự li gần như thế . Thế nhưng vì sao tác giả lại đặt nhan đề truyện là “ chiếc thuyền ngoài xa”?

Trở lại luận điểm ban đầu về đầu đề văn bản : Nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản. Nếu như nhan đề chỉ đơn thuần phản ánh các đối tượng thì hẳn chiếc thuyền trong ảnh không phải là ngoài xa ! Phải chăng nhan đề đó phản ánh cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.

Thật vậy, theo yêu cầu của trưởng phòng , bức ảnh phải săn tìm lần này “Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật” nhưng bức ảnh chụp được lại có ‘ vài bóng người lớn lẫn trẻ con”. Như không sao, dù có người thì người cũng chỉ “ ngồi im phăng phắc như tượng”!

Điều đáng nói là bức ảnh như thế đã ghi nhận được cái gì? Quả là một bức ảnh đẹp được chụp từ một cự li khá gần nhưng cái cách tiếp cận “ thực tế”, tiếp cận “ nguyên mẫu” như thế là cách tiếp cận từ xa vì nhà nghệ sĩ chỉ thu được cái hình hài bên ngoài , cái thơ mộng bên ngoài của cảnh và người. Bởi vì ngay sau khi nhà nghệ sĩ “ săn tìm” được cái đẹp trong cuộc đời để sáng tạo ra cái đẹp nghệ thuật kia, thì anh ta đã phải chứng kiến một cảnh đời cay cực, ngang trái mà không một người bình thường nào có thể ngoảnh mặt làm ngơ , nói chi đến nghệ sĩ vốn được coi là những con người đa cảm, đa mang!

Là nghệ sĩ và đã từng là một người lính , chứng kiến cảnh thằng con – Phác- vì thương mẹ mà đánh lại cha, khi thì bằng chính chiếc thắt lưng của lính nguỵ mà người cha của nó dùng để đánh mẹ nó , khi thì định dùng cả “ám khí” là một con dao găm lận ‘ trong cạp quần đùi”, “ tôi” đã không khoanh tay ngồi nhìn vì “ bất luận trong hoàn cảnh nào, tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo chio hắn đánh” . Và hậu quả là ‘ tôi” đã bị thương vì người chồng kia chống trả quyết liệt để tự vệ. Vậy cái cảnh thơ mộng đẹp đẽ mà “ tôi” thu được vào ống kính Pratica và cái cái cảnh đời ngang trái mà trong tư cách cựu chiến binh “ tôi” đã chứng kiến và tham dự cái nào cận nhân tình hơn? Do đó ảnh chụp chiếc thuyền thơ mộng kia chẳng phải là kết quả của lối tiếp cận hiện thực từ xa ư? Chiếc thuyền ngoài xa được chụp trong cự li gần là với ý nghĩa như vậy đó!

Chưa hết, do dưỡng thương và nể bạn nên “ tôi” nán lại thêm mấy hôm và chính lần này “ tôi” mới vỡ ra mọi lẽ. Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu – người đồng đội cũ của “ tôi” , giờ là Chánh án toàn án huyện- và người phụ nữ khốn khổ kia , ‘ tôi mới vỡ ra nhiều lẽ . Thì ra nếu chiếc thuyền chụp được là “ từ xa” thì cái cảnh “ tôi” chứng kiến cũng chỉ là bề nổi của cuộc đời gia đình nhà chài nọ. Vì sao người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận “đòn chồng” và cũng không chịu li dị, hiểu theo nghĩa nào đó là không chịu “ giải phóng” mình. Cái lí do chị đưa ra đã đưa hai người cựu chiến binh tốt bụng – một là một nghệ sĩ, một được mệnh danh là một Bao công- đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:

-“ Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu cái việc của các người làm ăn lam lũ , khó nhọc…”

- “ Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão ách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu. giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”

- “ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông …Cũng có khi biển động sóng gió chứ?”.

- ‘ Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó- vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ”.

Cái vòng luẩn quẩn của những kiếp người cần lao quả thật đầy bất ngờ đối với “ tôi”, vốn đã trải qua mấy năm chiến đấu tại mảnh đất này, đã giải phóng mảnh đất này và hiện đang là nhà báo từng dong ruổi nhiều nơi! Và “ tôi” cũng nhận ra rằng vì sao ông lão ( cha người phụ nữ) làm nghề sơn tràng “ ở tận trên miền rừng A So” và thằng cháú ngoại lại hay xuất hiện ở miệt biển này và tại sao trong buổi sáng chia tay “ tôi” ông lão luôn “đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền”. Vậy , với tất cả những điều ấy, “chiếc thuyền nghệ thuật” của “tôi” nói được cái gì cận nhân tình chưa hay cũng chỉ là “ chiếc thuyền ngoài xa”? Nhan đề ấy phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.

Tóm lại, qua thiên truyện và cách đặt tên nhan đề, ta thấy nhân vật “ tôi” vẫn chưa hoàn toàn thoả mãn với những gì ống kính của mình đã thu được. Đằng sau bức ảnh chiếc thuyền thơ mộng ấy còn là những cuộc đời , những con người lầm lụi, khốn khổ đến quẫn trí và giải toả cái quẫn trí ấy bằng những giải pháp hết sức kì quặc. Bức ảnh “thuyền và biển” kia đã nói được gì đâu. Và đó là cách để nhà văn Nguyễn Minh Châu bộc lộ thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu ẩn kín chứa đầy những nghịch lí , mâu thuẫn của đời sống hậu chiến tranh và đó cũng là đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu, người tiên phong tinh tường và tài ba trên hành trình đổi mới văn học nước nhà. Có thể hiểu “ Con thuyền ngoài xa” là những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống. Chính khát vọng muốn tìm đến cái đẹp, cái hài hoà, muốn làm cho con người hạnh phúc nhiều khi đã đưa người ta đến chỗ giản đơn hoá không nhận ra cái thực tế khắc nghiệt thì suy cho cùng cũng chỉ là một kiểu “ lướt nhẹ trên bề mặt cuộc sống” chứ đâu đã là thứ nghệ thuật “ là tiếng đau khổ…thoát ra từ những kiếp lầm than” ( Nam Cao- Trăng sáng).

Từ đó, có thể phát hiện ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa: Khi con thuyền là đối tượng của nghệ thuật thì có thể được chiếm lĩnh từ xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thực cuộc đời cần phải được chiếm lĩnh ở cự li gần. Đừng vì nghệ thuật thuần tuý mà bỏ quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét , vui buồn trước cuộc đời, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người . Với ý nghĩa ấy, phần nào gợi ra những liên tưởng tương đồng với truyện “ Trăng sáng” của nhà văn Nam Cao./.

Trích từ :Đinh Hà Triều

Phân tích nhân vật Phùng trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa



Phân tích nhân vật Phùng trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa

Bài viết liên quan
+++++++++++

I . Mở bài 


    Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất của văn học ta hiện nay . Ông đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng , một nghệ sĩ khao khát khám phá , sáng tạo ra cái đẹp , người luôn lo lắng , trăn trở , suy tư về nhân cách và đời sống con người . 

II . Thân bài .

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới , cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái , nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn . Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).

Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và toàn bích. Nhưng chính từ chiếc thuyền ngoài xa thật đẹp ấy lại bước xuống một đôi vợ chồng hàng chài , lão đàn ông thẳng tay quật vợ chỉ để giải toả nỗi uất ức, buồn khổ của mình. Thằng Phác, con lão che chở người mẹ đáng thương. Ba hôm sau, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cô chị gái tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Phùng xông ra buộc lão phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện. Ở đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao cảm thông và ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Anh hiểu :không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện tượng của cuộc đời.

Từ câu chuyện về một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. 

    Phùng trong truyện vừa là nhân vật chính đồng thời lại là người kể chuyện . Mọi diễn biến của tác phẩm đều được soi chiếu qua lời kể và suy nghĩ của anh . Trong tác phẩm , Phùng đã có những phát hiện quan trọng về cuộc sống và nghệ thuật . 

Trước hết là nhận thức của Phùng về cái đẹp của nghệ thuật . Phùng đang đứng trước cảnh biển sớm khi mặt trời mới thức dậy qua đám mây ánh hồng .Phùng bộc lộ rung động trước “ Một cảnh đắt trời cho” mà “ suốt đời cầm máy chưa bao giờ thấy” . Nó đẹp “ như bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” Cảnh đó được nhìn từ xa nên “ Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào” . Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua đôi mắt của người nghệ sĩ .Anh khẳng định “ toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp ,một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích” .Phùng thực sự rung động “ Đứng trước nó tôi trở nên bối rối .Trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và “ phát hiện ra khoảnh khắc trắng ngần của tâm hồn” . Phùng là một nghệ sĩ trên đường săn tìm cái đẹp .Anh thực sự biết quan sát lựa chọn cái đẹp của thiên nhiên ,cảnh vật ,con người .Sự rung động của người nghệ sĩ đã đến đúng lúc .Sự rung động thực sự khi đứng trước cái đẹp .Cái đẹp tự nhiên “ đắt giá” , “trời cho” ,mới thực sự làm rung động lòng người . Từ đây , ta thấy người nghệ sĩ phải là người phát hiện và mang cái đẹp đến cho đời . Phùng còn nhận ra trong suy nghĩ của mình “ chẳng biết ai đó lần đầu phát hiện ra bản thân cái đẹp là đạo đức”.Đó là cái đẹp phải kết hợp với cái tâm ,cái tài kết hợp với cái thiện .

Nhận thức thứ 2 của Phùng là về bạo lực gia đình . Từ chiếc thuyền đẹp như mơ , Phùng thấy bước ra một đôi vợ chồng làng chài mệt mỏi , xấu xí , thô kệch .. “ Người đàn bà đứng lại , đưa cặp mắt nhìn xuống chân” . “ Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ ,mặt đỏ gay ,lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy, dùng cái thắt lưng quật tới tấp lên lưng người đàn bà , lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng ngiến vào nhau ken két .Cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “ Mày chết đi cho ông nhờ .Chúng mày chết đi cho ông nhờ” . “ Người đàn bà có vẻ cam chịu nhẫn nhục không hề kêu một tiếng ,không chống trả ,cũng không tìm cách trốn chạy . Bạo lực trong gia đình thuyền chài ấy diễn ra thường xuyên “ Ba ngày một trận nhẹ ,năm ngày một trận nặng”. Bạo lực gia đình là vấn đề tồn tại trong xã hội .Bước sang thế kỉ XXI chúng ta vẫn chưa dứt điểm được .ở đâu có bạo lực gia đình thì nạn nhân của nó là người vợ ,người mẹ và những đứa con tội nghiệp .Bạo lực là dấu hiệu của sự đau khổ ,rạn nứt của hạnh phúc gia đình .Nó làm tổn thương bao mối quan hệ của đời sống tình cảm con người 

Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe dò phá mìn của mĩ trên bãi cát .Phải chăng cuộc chiến đầu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn ,mang lại niềm vui cho mọi người . Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra : Đói kém ,bệnh tật ,bạo lực gia đình … 

    Từ sự thật phũ phàng trên bãi biển về chiếc thuyền đánh ca đẹp như mơ , nghệ sĩ Phùng đã dần dần vỡ ra bao điều về cuộc sống của những người dân chài lưới . Biết bao cảnh đời cứ phơi bày ra trước mắt : Một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi , cao lớn với những đường nét thô kệch . Mụ rỗ mặt . Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới , tái ngắt và dường như đang buồn ngủ . Người đàn ông đi sau . Tấm lưng rộng và cong như một con thuyền . Mái tóc tổ quạ .Lão đi chân chữ bát ,hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ. Cặp vợ chồng làng chài là nạn nhân của cái nghèo khổ , vất vả lao động cật lực mà vẫn ngặt nghèo vì miếng cơm manh áo vì đông con . Người đàn bà thú nhận : “ giá tôi đẻ ít và chúng tôi sắm được cái thuyền rộng hơn” .Thì ra đẻ nhiều ,thuyền nào cũng từ mười đến hơn mười đứa .Đây là nguyên nhân của sự đói nghèo . Rồi thiên tai , trời làm động biển “ vợ chồng con cái phải ăn xương rồng chấm muối” Cái lí ở đời “ ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn ,cho nên phải gánh lấy cái khổ .Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống như mình trên đất được” . Do con người, do thiên tai do cái lẽ ở đời đã ăn sâu ,bám bám rễ hàng ngàn đời nay mà người đàn bà phải chịu đau khổ .Người đàn ông vì vất vả cực nhọc ,không biết đổ cái bực tức , uất ức vào đâu , chỉ còn biết trút lên người vợ .

Cậu bé Phác thương mẹ nhưng hành động liều lĩnh, thiếu suy nghĩ. Nó chỉ nghĩ thương mẹ bị đánh mà sẵn sàng bỏ quên tình phụ tử. Xét cho cùng, Phác cũng là nạn nhân của bạo lực gia đình. Cứ xem cử chỉ của nó thì thấy: “ Cái thằng nhỏ lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt”. Hành động nhất thời của Phác “ Như viên đạn” bắn vào người bố và lúc này “ đang xuyên qua tâm hồn” người mẹ .Tình cảnh thật đau lòng . Làm thế nào để xoá đi những chuyện đau lòng trong gia đình này . 

    Phùng còn có nhận thức về cách giải quyết tấn bi kịch gia đình . Cách giải quyết của chánh án toà án huyện là : Gọi người đàn bà tới cơ quan và nói bằng giọng giận dữ: “ Chị không sống nổi với lão vũ phu ấy đâu” Cách giải quyết này tuy đứng về phía người đàn bà nhưng thiếu thực tế. Đáng lẽ phải tìm hiểu nguyên nhân, phân tích cụ thể, nắm bắt yêu cầu nguyện vọng. Cách giải quyết này thực sự chưa ổn. Không thể áp dụng lí thuyết sách vở mà phải căn cứ vào thực tế đời sống. Cách gợi ý của Đâủ làm cho căn phòng “ lồng lộng gió biển tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt”. Cảm giác của Phùng thấy như vậy. Pháp luật phải gắn liền với đạo đức, không thể áp dụng tuỳ tiện. Giải quyết li hôn càng làm cho gia đình rạn nứt và tan vỡ. Những đứa con rồi sẽ ra sao ? Những người làm ăn lam lũ khó nhọc ra khơi vào lộng cần phải có bàn tay của người đàn ông. Người đàn ông là trụ cột trong nhà .

Cuối truyện Đẩu đi gặp người đàn ông . Phùng đi gặp thằng Phác . Kết quả như thế nào , tác giả còn bỏ ngỏ . Chỉ biết bức ảnh anh chụp có chiếc thuyền lưới vó và suy nghĩ của Phùng “ bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh ,đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với đường nét thô kệch ,tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá ,nửa thân dưới ướt sũng ,khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm” .Phải chăng đây là sự trăn trở trước cuộc sống còn nhiều điều khó khăn , vất vả của người làm nghệ thuật . Đó là mối quan hệ giữa văn chương với cuộc đời .

III . Kết bài .

    Truyện Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên nhiên , về sự thật cay đắng , đầy bi kịch , nghèo khổ của những con người lao động bằng nghề chài lưới , đã bộc lộ những lo lắng , trăn trở của nhà văn về nhân cách , đời sống con người , bộc lộ lòng thương cảm , trắc ẩn , trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động . Truyện đậm chất tự sự , triết lý , tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu . 

(Sưu tầm)

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài



Bài viết liên quan
+++++++++++
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài


I . Mở bài 
    
Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất của văn học ta hiện nay . Ông đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài , một người lao động lam lũ , bất hạnh , trải đời và sáng đẹp tình yêu thương , đức hi sinh , vị tha . 

II. Thân bài . 

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới , cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái , nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn . Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).

     Mọi diễn biến của tác phẩm đều được soi chiếu qua lời kể và suy nghĩ của nhân vật Phùng . Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Phùng đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và toàn bích. Nhưng chính từ chiếc thuyền ngoài xa thật đẹp ấy lại bước xuống một đôi vợ chồng hàng chài , lão đàn ông thẳng tay quật vợ chỉ để giải toả nỗi uất ức, buồn khổ của mình. Thằng Phác, con lão che chở người mẹ đáng thương. Phùng xông ra buộc lão phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện. Ở đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao cảm thông và ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Anh hiểu :không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận mọi hiện tượng của cuộc đời.

Từ câu chuyện về một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. 

    Trong tác phẩm nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng . Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà án huyện . Cuộc đời , số phận , tính cách , cảnh ngộ của chị gây xúc động , trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc . 

    Ấn tượng đầu tiên về người đàn bà là khi chị bước ra từ chiếc thuyền đánh cá đẹp như mơ . Nhưng đối lập với vẻ đẹp mờ ảo được nhìn từ xa , khi lại gần , những nét khắc khổ trong số phận của chi hiện rõ trên dáng vẻ khuôn mặt . Nhà văn không đặt tên cho nhân vật mà chỉ dùng danh từ chung “ người đàn bà hàng chài” như một mẫu số khái quát nên số phận bất hạnh , cực khổ của bao người phụ nữ hàng chài khác trong xã hội . Chị bước ra từ con thuyền , xuất hiện ngay trước mắt nghệ sĩ Phùng với dáng người to lớn , thô kệch , mặt rỗ , khuôn mặt tái nhợt sau một đem thức trắng kéo lưới , dáng vẻ mệt mỏi . Chị lặng lẽ để cho chồng đánh : lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy, dùng cái thắt lưng quật tới tấp lên lưng người đàn bà , lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng ngiến vào nhau ken két .Cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “ Mày chết đi cho ông nhờ .Chúng mày chết đi cho ông nhờ” . “ Người đàn bà có vẻ cam chịu nhẫn nhục không hề kêu một tiếng ,không chống trả ,cũng không tìm cách trốn chạy . Bạo lực trong gia đình thuyền chài ấy diễn ra thường xuyên “ Ba ngày một trận nhẹ ,năm ngày một trận nặng”. Rồi thằng Phác , thằng con trai mà chị yêu quý nhất lao vào bố khiến tim chị đau nhói , xấu hổ , thương con , lo lắng , sợ hãi con trai có thể làm điều gì dại dột với bố . Nước mắt chị tràn ra , thấm vào những nốt rỗ chằng chịt trên mặt . Chỉ bằng vài chi tiết chọn lọc , nhà văn đã gợi ra bao điều đau xót về bi kịch cuộc đời của một người phụ nữ cực khổ , lam lũ , bất hạnh . 

    Số phận , cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện theo yêu cầu của chánh án Đẩu , bạn chiến đấu cũ của nghệ sĩ Phùng sau khi anh can ngăn bạo lực trong gia đình chị và bị lão chồng vũ phu của chị đánh bị thương . Ban đầu khi đến toà án , chị rất sợ sệt , khép nép , một điều quý toà , hai điều quý toà , xưng con , chỉ dám ngồi mon men ở mép ghế . Khi nhận được lời khuyên “ chị không sống nổi với người chồng vũ phu ấy đâu” của chánh án , người đàn bà ra sức van xin “ quý toà bắt tội con cũng được , bỏ tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó” . Lời van xin ấy chứa đựng bao éo le mà người ngoài cuộc đều ngạc nhiên , không hiểu được . Khi chánh án Đẩu nghiêm giọng , nói rõ chủ trương của toà , chị bỗng thay đổi hẳn thái độ ,xưng chị với Phùng và Đẩu . Chị kể lại câu chuyện cuộc đời mình như lời giải thích cho việc chị phải chấp nhận một người chồng vũ phu mà không thể bỏ . 

    Câu chuyện bắt đầu từ việc chị lấy chồng. Chị vốn mặt rỗ , xấu gái , may được người thanh niên đánh cá thương và lấy làm vợ . Khi ấy hắn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm , không bao giờ đánh đập chị . Cuộc sống trở nên khó khăn trong những ngày biển động . Vợ chồng con cái cả tháng liền toàn ăn xương rồng luộc chấm muối . Thuyền thì nhỏ mà con thì nhiều , nhà nào cũng cũng gần chục đứa . Đàn ông trên thuyền nếu không uống rượu thì đánh vợ mỗi khi khổ quá . Chị khẳng định bao nỗi vất vả , cực khổ nếu trên thuyền không có đàn ông , đặc biẹt là khi biển nổi giông bão . Trên thuyền bắt buộc phải có người đàn ông chèo lái , làm chỗ dựa và cùng nuôi nấng một đàn con đông đúc . Chị tâm sự rằng trên thuyền cũng có nhiều lúc vui, vui nhất là vợ chồng sống hoà thuận , nhìn đàn con được ăn no . Chị khẳng định , đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không sống cho mình . 

    Những lời giãi bày chân thực trên là câu chuyện xúc động, éo le về cuộc đời người đàn bà hàng chài. Câu chuyện đó đã đưa ra những lí do sâu sắc mà chị không thể nghe theo lời khuyên giản đơn của chánh án Đẩu mà bỏ chồng . Cách xử sự của chị là không thể khác . Bởi , nếu bỏ chồng , chị không thể một mình nuôi nấng đàn con chị vô cùng thương yêu. Một mình người đàn bà không thể chèo lái con thuyền trên biển khơi rộng lớn . Giọng văn sâu lắng của tác phẩm bộc lộ xót thương trước hoàn cảnh thân phận của người đàn bà và thái độ trân trọng của nhà văn trước tình yêu thương , đức hi sinh , lòng vị tha cao cả của chị . ở chị , dù cái nghèo khổ có lấn át đến đâu , chị vẫn toả sáng vẻ đẹp cao thượng của người phụ nữ Việt Nam . 

Đồng thời, qua câu chuyện , nguyên nhân của nạn bạo hành gia đình được bộc lộ rõ . Nạn bạo hành gia đình có nguồn gốc từ chính sự nghèo khổ , từ nhận thức hạn hẹp của người dân về xã hội . Câu chuyện ấy đưa ra bài học nhân sinh sâu sắc : không nên nhìn đời và giải quyết mội việc một cách đơn giản phiến diện mà cần phải có cái nhìn đa chiều , thấu hiểu mọi góc khuất của cuộc sống . Qua đó ta hiểu được cái nhìn đầy trăn trở của nhà văn về đời sống nhân dân sau chién tranh. Kẻ thù của nhân dân là sự đói nghèo, tối tăm, lạc hậu về văn hoá, sự tha hoá về nhân cách . 


III . Kết bài 

    Truyện Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của Phùng thân phận cay đắng , đầy bi kịch , nghèo khổ của người đàn bà hàng chài, đã bộc lộ những lo lắng , trăn trở của nhà văn về nhân cách đời sống con người, bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu . 

(Sưu tầm)

Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa được cảm nhận qua con mắt người nghệ sĩ như thế nào?


Bài viết liên quan
+++++++++++

Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa được cảm nhận qua con mắt người nghệ sĩ như thế nào?

Hình ảnh "Chiếc thuyền ngoài xa" được nhà văn khắc hoạ rất ấn tượng: Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ.

Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm hồn.


Sự thay đổi cách nhìn người nghệ sĩ khi chứng kiến nghịch cảch:

Sau khoảnh khắc trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thực cuộc sống” ban cho.Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này người yêu người, sống để yêu nhau (Tố Hữu).

Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình.

Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”.

Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.

Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.


Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả.

Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.

Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.
Nguồn: Sưu tầm

Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu thể hiện phong cách tự sự triết lý về cuộc đời như thế nào?



Bài viết liên quan
+++++++++++
Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu thể hiện phong cách tự sự triết lý về cuộc đời như thế nào?

Chiếc thuyền ngoài xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người. Vậy nên, có thể nói hình tượng "Chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời”. (Lê Ngọc Chương) - Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu)

Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.


Nguồn: Sưu tầm.

Nguyễn Minh Châu và Chiếc thuyền ngoài xa


Bài viết liên quan
+++++++++++

1. Tiểu sử:- Tên: Nguyễn Minh Châu (1930-1989)
- Quê: huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Tác phẩm: Cửa sông (1967), Dấu chân người lính(1972), Cửa sông (1967), Dấu chân người lính(1972)...
- Nguyễn Minh Châu
 được Nhà nước tặng giải thưởng HCM về văn học và nghệ thuật năm 2000
2. Phong cách nghệ thuật:
Trước 1975
-Nghiêng về cảm hứng anh hùng ca, phản ánh, tái hiện bức tranh hiện thực sinh động về con người và cuộc sống của nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ.
+Tác phẩm: Cửa sông (1967), ...
Sau 1975
- Văn chương trở về với đời thường & khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức, thế sự
-Có sự đổi mới trong đề tài & bút pháp
-+Tác phẩm:Bến quê (1987)...
3. Tác phẩm(Hoàn cảnh ra đời, Nhan đề, Chủ đề)Chiếc thuyền ngoài xa viết năm 1983 là truyện ngắn in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường , truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.
Nhan đề: Nghệ thuật nhìn xa, nhìn gần thì cái trần trụi, hiện thực cuộc sống bị phơi bày. Khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc sống thì nghệ thuật mới thiết thực.
4. Chủ đề: Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và gửi gắm, chiêm nghiệm sâu sắc cảu mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời 1 cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.
5. Tóm tắt- Phùng_nghệ sĩ nhiếp ảnh, được phân công đến một vùng ven biển miền Trung , để chụp ảnh lịch. Sau nhiều ngày “phục kích”, anh chụp được một “cảnh đắt trời cho”: Cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh hết sức kinh ngạc: từ chính trong chiếc thuyền, một gã đàn ông vũ phu đã đánh đập người vợ hết sức dã man; đứa con trai, xông vào đánh lại bố.Phùng xông vào can thiệp.Nhưng lạ lùng thay, những ngày sau, cảnh tượng đánh đập vũ phu đó vẫn tiếp tục diễn ra. …

- Theo lời mời của Đẩu_một người bạn chiến đấu của Phùng, nay là Chánh án toà án huyện

-Người đàn bà hàng chài đã đến toà án. Đẩu và Phùng khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, độc ác đó. Nhưng thật bất ngờ: người phụ nữ đã một mực từ chối lời khuyên cùng giải pháp của Đẩu và Phùng, nhất quyết xin không bỏ lão chồng vũ phu.Chị kể lại cuộc đời mình, gia cảnh của chị và người chồng… Đó cũng là lí do chị từ chối lời khuyên trên.

- Những nhận thức mới bừng sáng trong Đẩu và Phùng sau câu chuyện. Và sự ám ảnh, trăn trở của Phùng khi nhìn bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa
 của mình sau chuyến công tác.
6. Giá trị nội dungThông qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu
 không chỉ xót xa thương cảm người phụ nữ bất hạnh mà còn lên án sự tàn nhẫn, thô bạo của người chồng trong gia đình. Đồng thời báo động tình trạng bạo lực trong gia đình đang làm khô héo, rạn vỡ tâm hồn con người. Ca ngợi tình mẫu tử, trân trọng khát vọng được sống trong yêu thương, yên bình của trẻ em.
=> Giá trị nhân đạo sâu sắc
7. Giá trị nghệ thuật-Tình huống truyện độc đáo.
- Giọng điệu trần thuật đa dạng:
+ Khách quan ngạc nhiên khi tả cảnh đời, cảnh biển.
+ Lo âu khi tái hiện lời thoại của người đàn bà
+ Xót thương, căm phẫn khi chứng kiến cảnh người đàn ông ngược đãi vợ con.
+ Day dứt khắc khoải khi thấy người đàn bà chưa tìm được lối thoát...
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật (Phùng, người phụ nữ hàng chài, Phác, Đẩu .)
- Lựa chọn các chi tiết đặc sắc (bãi xe tăng cũ, vái lạy thằng Phác & Đẩu, chiếc thuyền xuất hiện.)

Cấu trúc văn bản truyện ngắn: "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu
Cho đến nay, hầu như giới nhà văn và giới nghiên cứu phê bình văn học đều coi Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu, mang dấu ấn rõ nhất phong cách Nguyễn Minh Châu ở thể loại truyện ngắn. 
Tập sách Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX (tập 4) cũng chọn tuyển truyện ngắn này. Mới đây tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 1 tháng 10 năm 2007) cũng chọn và coi đó là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Chiếc thuyền ngoài xa sẽ được đưa vào giảng dạy ở chương trình chính thức Ngữ văn 12 bắt đầu từ năm học 2008 – 2009. Giới thiệu mấy lời như vậy để khẳng định vị trí xứng đáng của tác phẩm trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung, trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn lớn Nguyễn Minh Châu
 nói riêng - mà công lao đóng góp của ông đã được Nhà nước và nhân dân ghi nhận bằng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 2 – 2000).

Nguồn: Internet