Jul 7, 2012

Nhân vật người đàn bà hàng chài trong "chiếc thuyền ngoài xa"


Nhân vật người đàn bà hàng chài trong "chiếc thuyền ngoài xa"

Dàn ý:

I. Mở bài


- Giới thiệu tác phẩm” Chiếc thuyền ngoài xa” (HCST, ND, NT)

- Giới thiệu về nhân vật người đàn bà.

II. Thân bài

1.Ngoại hình

- Cao lớn, thô kệch. Mặt rỗ, tái mét vì mệt mỏi.Dáng đi chậm chạp như bà già.

- Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưởi …1. Ngoại hình:

Từ những nét ngoại hình được khắc hoạ, hình ảnh người đàn hiện lên với ấn tượng của sự vất vả, lam lũ và nghèo khổ.

2.Hành động và thái độ:

a. Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn: chị vẫn cam chịu, nhẫn nhục, không có một phản kháng nào:không kêu, không chống trả, không chạy trốn.

b.Khi đứa con trai xuất hiện:

- Chị cảm thấy xấu hổ nhục nhã, đau đớn vì con mình chứng kiến cảnh ấy.

- Ôm chầm lấy con,chị thương con vì bị bố đánh.

- Chắp tay vái lấy vái để nó, tức là xin nó đừng làm gì đó trái với đạo lí.

Người đàn bà ấy là người bất hạnh nhưng ở chị toát lên vẻ đẹp của lòng vị tha giàu đức hi sinh. Hình ảnh người đàn bà vùng chài này đáng được thương và đáng được trân trọng.

c.Khi gặp Chánh Án Đẩu:

- Thái độ:

+ Lúc đầu khi đến sợ sệt run rẩy tìm một góc để ngồi, Đó là cái run rẩy thường dân cả đời mới tiếp xúc với quan toà, công đường.

+ Xưng hô: quý toà-con tự nhận mình là thân phận thấp hèn.

+ Khi Đẩu khuyên chị “cả nước này không có người đàn ông nào vũ phu như hắn, chị không sống được với lão ta đâu”, ý của Đẩu khuyên chị ta hãy từ bỏ người chồng vũ phu ấy. Nhưng người đàn bà phản ứng mãnh liệt: “con lạy quý toà...nhưng xin đừng bắt con bỏ nó”.

=> Thái độ của người đàn bà trái với lẽ thường, điều mà Đẩu khuyên người đàn bà rất hợp lí và có lẽ ai cũng nghĩ rằng đó là giải pháp tốt nhất giải thoát cho người đàn bà trong hoàn cảnh ấy, giải thoát khỏi người chồng vũ phu. Vì thế sau câu nói của người đàn bà Phùng cảm thấy căn phòng lồng lộng gió biển bỗng nhiên bị hút hết không khí ngột ngạt quá chừng.

* Sau đó thay đổi cách xưng hô: chị và các chú , dường như chị đã thoát ra được nỗi lo lắng sợ hãi, lúc này thái độ không còn run rẩy nữa mà tự tin hơn. Chị cảm ơn Phùng, Đẩu về lời khuyên ấy và khẳng định “ Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là ngưòi làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”-> người phụ nữ rất hiểu lẽ đời. 

* Chị kể về cuộc đời mình: là cuộc đời bất hạnh, là một người đàn bà xấu (căn bệnh đậu mùa đã để lại những di chứng không bao giờ xoá được trên khuôn mặt của người đàn bà ấy)

- Lấy chồng người hàng chài, sinh nhiều con, nghèo lại càng nghèo hơn.

- Bị chồng đánh đâp hành hạ tàn nhẫn. Mỗi khi lão ấy buồn hay bực tức là đem chị ra đánh.

- Chị hiểu và cảm thông cho hành động vũ phu ấy của chồng. Chị nghĩ rằng tẩt cả chỉ vì đói nghèo mà ra. Và nguyên nhân cũng do chính mình tạo ra.

- Là một người phụ nữ rất yêu thương chồng con vì thế chị xin chồng đưa mình lên bờ để đánh nhằm tránh làm tổn thương các con.

- Chị đưa thằng Phác lên bờ vì không muốn nó chứng kiến cảnh bạo lực và hơn hết chị không muốn nó vì thương mình mà trở thành đứa con bất hiếu với cha, làm trái với luân thường đạo lí.

- Chị quan niệm: người đàn bà sống trên thuyền là sống vì con chứ không vì mình và điều hạnh phúc nhất của chị là khi nhìn thấy đàn con ăn no.

Nguyên nhân của sự chịu đựng và nhẫn nhục ấy là bởi vì chị cần phải có chồng, trên thuyền cần phải có người đàn ông mạnh khoẻ và biết nghề. Hơn nữa các con chị cần phải có bố để nuôi và dạy chúng nó. Cần có chỗ dựa vững chắc trong cuộc sống mưu sinh vất vả, chị hiểu nỗi khốn khổ bế tắc của chồng. Vì vậy chị luôn nhẫn nhục cam chịu sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì chồng con. Nhưng dù sao trong cuộc sống triền mien khổ đau ấy , người đàn bà vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. Có lẽ đó cũng là một lí do để chị sống.
Câu chuyện của người đàn bà khiến cho Phùng và Đẩu ngạc nhiên sững sờ không hiểu tại sao người phụ nữ ấy lại có sức cam chịu đến như thế. Và rồi khi đã hiểu ra họ cảm phục và trân trọng tấm lòng vị tha đức hi sinh cao cả của người phụ nữ hàng chài.

Tóm lại: Qua câu chuyện của người phụ nữ hàng chài nhà văn thể hiện cái nhìn nhân hậu của mình. Ông phát hiện ra rằng đằng sau câu chuyện buồn của gia đình người lao động vùng biển là vẻ đẹp của tình mẫu tử, lòng bao dung và đức hi sinh của người phụ nữ. Đó là hạt ngọc ẩn dấu trong những cái lấm ắp đời thường mà ông nâng niu trân trọng.

Và qua đó ta hiểu được hơn giá trị tốt đẹp của người phụ nữ vùng biển nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.

III. Kết bài

- Nhận xét về nhân vật , nêu những suy nghĩ về ý nghĩa hình tượng nhân vật.

- Đánh giá cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu.

(Sưu tầm)

Bài viết liên quan
+++++++++++

Hình tượng tác giả trong “Chiếc thuyền ngoài xa”



Hình tượng tác giả trong “Chiếc thuyền ngoài xa”

Bài viết liên quan
+++++++++++

Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là một nhà văn đóng vai trò quan trọng trong cả hai giai đoạn văn học Việt Nam trước và sau 1975. Đối với ông, quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ không bao giờ theo một lối mòn, chính vì thế, những sáng tác của ông sau những năm sau khi đất nước giải phóng đã hoàn toàn khác biệt với giai đoạn trước mà ông cho là “giai đoạn của văn nghệ minh họa”. 

Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm đặc sắc thể hiện rõ nét nhất quan điểm sáng tác của ông sau này. Tác phẩm mang trong mình tinh thần nhân đạo sâu sắc và một phong cách truyện độc đáo của nhà văn đầy tài năng và nhân hậu. Chiếc thuyền ngoài xa cũng được nói đến như một tác phẩm điển hình, đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật trong giai đoạn văn học này. Những thành công đó đã góp phần làm nổi bật hình tượng tác giả mà chúng ta đang muốn nói tới trong Chiếc thuyền ngoài xa.

“Mỗi nhà văn, dù muốn hay không đều miêu tả chính mình trong các tác phẩm một cách đặc biệt” (Goethe). Tác giả chính là trung tâm làm nên nội dung và hình thức của tác phẩm, tác giả hiện trong thế giới của tác phẩm chính là hình tượng tác giả. Đối với mỗi thể loại, hình tượng tác giả được thế hiện khác nhau. Nếu như ở thơ ca, đó chính là hình tượng cái Tôi thì ở văn xuôi, đó chính là hình tượng người kể chuyện. Nhưng với mỗi nhà văn, sáng tạo ra một tác phẩm đều phải chọn cho mình một cách kể riêng. Khác với những tác phẩm hồi kí, nhật kí, hình tượng tác giả xuất hiện một cách trực tiếp với tư cách là người tham gia vào câu chuyện mà họ đang kể lại, ở một tác phẩm truyện ngắn, hình tượng tác giả luôn xuất hiện gián tiếp qua các yếu tố khác nhau để hình thành nên tác phẩm nhưng rõ nét nhất là thể hiện qua hình ảnh nhân vật, đặc biệt là nhân vật trung tâm trong tác phẩm. Hình tượng tác giả trong Chiếc thuyền ngoài xa chính là nhân vật Phùng - một người kể chuyện xưng Tôi. Nhiều ý kiến nhận xét đã cho rằng Phùng là hóa thân của tác giả. Điều này là tất yếu bởi Nguyễn Minh Châu đã thực sự làm nên một thành công mà bất kì nhà văn nào cũng muốn hướng đến trong quá trình sáng tạo của mình. M.Bakhotin đã viết về hình tượng tác giả trong cuốn Ngữ cảnh “chúng tôi quan niệm người sáng tạo trong sáng tác của anh ta chứ không thể nào bên ngoài sáng tác của anh ta” có nghĩa là chúng ta sẽ đánh giá hình tượng của chính nhà văn đó qua mỗi tác phẩm mà họ viết nên chứ không phải là hình tượng bên ngoài nào khác và để đánh giá chúng, chỉ có cách duy nhất là dựa vào văn bản và các yếu tố cấu trúc nên văn bản đó như ngôn ngữ, giọng điệu, cái nhìn nghệ thuật, nhân vật v.v..

Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rất thành công hình tượng của chủ thể sáng tạo trong tác phẩm của mình. Điều ông hướng tới là một đề tài khác với những đề tài trước đó là về chiến tranh mang cảm hứng sử thi, cái ông tìm kiếm chính là đề tài thế sự, về cuộc sống thường nhật, nghèo khó của chính những con người cơ cực ở làng chài ven biển nơi chiến trường xưa “trở về thăm một vùng chiến trường cũ ở đấy tôi có một thằng bạn vừa là đồng hương, vừa là đồng đội đã từng mười năm ở với nhau trên rừng A So”. Cái nhìn của tác giả đã đọng lại ở số phận của những con người nhỏ bé, lam lũ quanh năm lênh đênh trên biển, sớm tối làm bạn với sóng to gió lớn. Cảm quan của một nhà văn đã từng hướng đến vẻ đẹp hoàn hảo và bao bọc nhân vật trong môi trường “vô trùng” dường như đã thay đổi để hướng đến những con người thực trong cuộc sống đầy khó khăn. Câu chuyện bắt đầu từ chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng với nhiệm vụ chụp một tấm ảnh “không có người. Hoàn toàn là thế giới tĩnh vật.” Nhưng chính trong hành trình tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên đó, người nghệ sĩ đã khám phá vẻ đẹp của chính con người ẩn sau những thứ tưởng chừng như người ta không thể chấp nhận được trong cuộc sống thường nhật. Sự hoá thân của tác giả qua nhân vật Phùng đóng vai người kể chuyện trong tác phẩm. Ở đó, nhà văn cũng muốn có điều kiện bộc lộ gần như trực tiếp những suy nghĩ của mình trước một hiện thực được nhìn ở tầm gần.

Thời gian trong truyện mở ra vào một ngày tháng bảy khi người nghệ sĩ đã có một chuyến công tác đầy thành công trở về với những bức ảnh nghệ thuật mà họ đã dày công làm việc suốt năm tháng. Nhưng tất cả vẫn chưa làm hài lòng trưởng phòng đầy kinh nghiệm và cầu toàn. “Một bức ảnh chụp cảnh sương trên biển” là điều vô cùng khó khăn khiến cho Phùng phải lặn lội một lần nữa để có được. Thời gian mà Nguyễn Minh Châu lựa chọn có thể coi là thời gian tuyến tính, một sự lựa chọn khá đơn giản nhưng lại có tác dụng làm cho câu chuyện trở nên chân thực và chúng ta có cảm giác người kể chuyện đang kể lại câu chuyện thực mà chính mình đã trải qua. “Năm ngày sau tôi đã có mặt ở một vùng biển cách Hà Nội ngoài sáu trăm cây số”. Khoảng thời gian hơn một tuần lẽ là những ngày ở vùng ven biển nơi Phùng đã ở lại và tìm kiếm tác phẩm nghệ thuật của mình. Một khoảng thời gian rất ngắn nhưng đã đủ để chứng kiến, để đi qua số phận con người đầy nghiệt ngã, để rồi sau mỗi ngày, mỗi thời khắc, ta càng cảm nhận được nỗi đau đang thấm dần trong trái tim. Nhịp thời gian Phùng chứng kiến câu chuyện của gia đình người đánh cá cũng như diễn biến tiếp theo của câu chuyện rất gần nhau. Mỗi sự việc đều diễn rất nhanh “trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há hốc mồm ra mà nhìn” để rồi sự việc khiến Phùng ngạc nhiên cũng chỉ diễn ra trong chốc lát “khoảnh khắc sau”, tất cả đều kết thúc như chưa hề có sự xáo trộn lớn trước đó. Dòng thời gian thuận chiều được tác giả chọn lựa tạo cho người đọc một cảm giác thực như những điều đó đang diễn ra trước mắt người đọc. Những điều chứng kiến trong lần đầu tiên ấy đã làm cho nhân vật Phùng không khỏi ám ảnh và chính lần gặp thứ hai đã giúp anh có cơ hội tham gia và tháo bỏ mọi khúc mắc trong lòng. Nhà văn không để cho người kể chuyện có thể hiểu thấu mọi chuyện ngay từ lần đầu mà để cho anh có một thời gian để nghĩ đến những điều anh đã phải chứng kiến, có thể coi đây là khoảng thời gian “chuẩn bị” để nhân vật người kể chuyện có thể nhận đón nhận sự thực đằng sau số phận của những con người trong câu chuyện mà anh đã chứng kiến. Chính điều đó càng khơi gợi trong lòng người đọc một hình dung mới về những gì đã và sẽ diễn ra, gieo rắc trong lòng họ những điều đang cần được giải đáp. 

Người kể chuyện đã đi và chiêm nghiệm trong suốt quãng thời gian ngắn ngủi anh ở tại làng chài này. Anh đã chứng kiến cuộc sống lao động của con người và đã quyết định từ bỏ ý nghĩ ban đầu về việc nắm bắt hình ảnh đẹp của thiên nhiên mà thay vào đó là cảnh thu lưới trên các vó bè dù biết đó là điều mạo hiểm bởi trước đó đã có rất nhiều bức ảnh thành công về đề tài này nhưng “sự hấp dẫn của hình ảnh mà chính là những tiếng động đầy vẻ náo nhiệt ở cách xa hàng cây số cũng nghe tiếng của một nhóm thuyền đánh cá đêm bằng vó bè”. Khoảng không gian mở ra trước mắt người kể chuyện là khoảng không gian đối lập giữa sự rộng lớn của vùng biển bao la và cuộc sống tù túng, nhỏ hẹp của biết bao thế hệ gia đình làm nghề chài lưới. Họ đã giúp người nghệ sĩ hiểu được những mảnh đời nhỏ bé và chính anh đã nhận ra cái đẹp không phải chỉ nằm trong vẻ đẹp toàn mĩ của thiên nhiên mà còn nằm trong chính những điều gần gũi nhất. Với nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã mở ra hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đằng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hình ảnh vừa có ý nghĩa gợi tả vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nhân vật người kể chuyện dường như đã chọn cho mình một vị trí khá thuận lợi để quan sát để chứng kiến và cảm nhận về cuộc sống. Ban đầu câu chuyện là của chính anh và không gian cũng mở ra cho nhân vật với công việc đi tìm những bức ảnh nghệ thuật. Vùng biển miền Trung đã gợi ra cho anh những hình ảnh về kỉ niệm chiến đấu một thời và giờ đây tất cả đã đổi thay nhưng vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây vẫn vẹn nguyên. Nhưng chính trong câu chuyện của mình, anh không còn là môt nhân vật thứ ba chứng kiến bên ngoài khoảng không gian của nhân vật khác mà chính anh là nhân vật bước và không gian của mình. Anh đã ở bãi biển hàng tuần liền, đã có những đêm nằm cạch những con sóng trên bờ cát để đếm những ngôi sao trên bầu trời khuya và chính những lúc như thế đã khiến anh thấy mình cũng giống như người dân nơi đây cũng thấy mình thật nhỏ bé giữa không gian bao la rộng lớn. Anh đã tự mình chọn cho mình không gian để sáng tác, để nắm bắt nghệ thuật đôi khi chỉ là bên trong những cỗ xe tăng còn sót lại sau thời chiến. Dường như để nhân vật người kể chuyện của mình gắn với hình ảnh không gian ấy, tác giả vẫn thể hiện một điều ám ảnh khôn nguôi về một thời chiến đã qua nhưng vẫn để lại những dấu tích hữu hình và vô hình trên mảnh đất này. 

Không gian của người kể chuyện được chia cắt làm hai nơi, một là toàn bộ bãi biển rộng lớn, nơi anh đã hai lần chứng kiến nghịch cảnh của gia đình người thuyền chài đó và một nơi khác là tòa án huyện. Trong căn phòng làm việc của Đẩu - vị Bao Công của huyện ven biển này, không gian thật sự quá chặt hẹp và câu chuyện về cuộc đời tù túng của người đàn bà làng chài ấy cũng được mở ra. Hai thứ tù túng một của không gian căn phòng và cả thứ tù túng của cuộc đời con người như đang cộng hưởng, tác động vào tâm thức của người đang chứng kiến câu chuyện ấy khiến cho “Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”. Người đọc được bước ra khỏi cái căn phòng đó để cùng nhân vật chứng kiến câu chuyện của cuộc đời chị. Tất cả như vỡ òa sau những lời nói, sau những tiếng nấc và những dòng tâm sự. Không gian khép lại câu chuyện cũng chính là nơi câu chuyện được bắt đầu. Sự trở về của người nghệ sĩ là một cánh cửa khép lại cuộc hành trình vừa qua nhưng đồng thời cũng là mở ra một cánh cửa mới của những chặng đường tiếp theo nhưng cái đọng lại chính là vòng quay luẩn quẩn của những kiếp người mà anh đã chứng kiến để rồi tất cả đọng lại là một nỗi xót xa.

Một lần nữa, qua hình tượng người kể chuyện, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện chính hình ảnh và những suy tư của mình về thế giới, về con người. Người kể chuyện ấy có tên là Phùng - một người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã từng trải qua chiến tranh, đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đau thương mất mát và họ đã từng cầm súng chiến đấu cho những điều tốt đẹp hơn nhưng hiện thực vẫn còn là những góc khuất buộc họ phải tìm đến và không né tránh. Họ không thể là những nghệ sĩ trốn vào trong những thứ ảo ảnh của nghệ thuật mà quên đi cuộc sống và Phùng chính là con người kiếm tìm của Nguyễn Minh. Ông đã không đi theo con đường tìm kiếm những con người nghị lực vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt của thực tại mà trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Ông nhìn thân phận con người không còn là sự đề cao và đặt cho họ những phẩm chất hoàn mĩ mà trên hết, ông đã chứng kiến và tham gia vào chính cuộc đời của họ như một người bạn, thực sự biết sẻ chia và đồng cảm. Hành động xông vào đánh người chồng vũ phu của Phùng cũng chính là hành động của một con người thực sự bởi “Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Đó là hành động của nhân vật tự ý thức được vai trò của mình trước những cảnh mà anh chứng kiến và đó cũng là điều nhà văn muốn mình không còn là người ngoài cuộc trước số phận của con người. Nhưng kết thúc thiên truyện không phải là những điều mà nhà văn muốn thay đổi cho cuộc sống của nhân vật mà là sự thấu hiểu của Phùng, của Đẩu và tất cả người đọc về cuộc đời của người đàn bà ấy. Đó thực sự là cuộc sống riêng tuy trong mắt người ngoài đó là bất hạnh nhưng đối với chị đó cũng đủ để hạnh phúc. Hạnh phúc ấy không phải là hạnh phúc cho riêng mình mà là hạnh phúc của những đứa con. Ở đây, cho dù không muốn nhưng người kể chuyện vẫn phải nằm ngoài cuộc số phận của người đàn bà đó. Chính họ đã quen và chấp nhận nó, đó không phải là sự chấp nhận trong mù quáng mà đó là chấp nhận của sự hi sinh. Nguyễn Minh Châu đã từng nói “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” và có lẽ nhân vật Phùng trong truyện đã thực hiện được những gì nhà văn muốn hướng đến.

Hình tượng người kể chuyện của Nguyễn Minh Châu không đơn thuần là người dẫn dắt câu chuyện mà anh cũng là một nhân vật biết mà theo điểm nhìn của người kể chuyện - nghệ sĩ - qua đó, sự xuất hiện của các nhân vật tạo được ấn tượng riêng và sự cuốn hút người đọc khiến họ muốn tiếp tục tìm hiểu, khám phá. Câu chuyện dần sáng tỏ theo sự tìm hiểu của nghệ sĩ và được đẩy lên đến cao trào ở cảnh người đàn ông lại đánh mẹ Phác lần thứ hai. Cách tổ chức, sắp xếp các sự kiện, chi tiết của câu chuyện tôn trọng tính chân thực và tập trung thể hiện tư tưởng tác phẩm. Phùng không chỉ kể lại những điều mắt thấy tai nghe mà còn bày tỏ những cảm xúc chủ quan, những suy nghiệm về nghệ thuật, về con người và cuộc sống con người, về mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Sự thay đổi ngôi kể chính là thay đổi điểm nhìn, từ điểm nhìn chủ quan của ngôi Tôi đến điểm nhìn khách quan của người thứ ba nghe câu chuyện của người đàn bà làng chài và anh đã hoàn toàn bị xúc động bởi câu chuyện đó khiến cho anh có thể bộc lộ trạng thái của mình một cách chân thành, không che giấu, không đè nén. Đó là ngôi kể mang tính hướng ngoại ở những hành động trực tiếp nhưng đôi khi nó cũng mang tính hướng nội trong lời kể qua những cảm xúc nội tâm bên trong “tôi trở nên bối rối”, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy”, “tôi chắc mẩm”, “tôi vô cùng ngạc nhiên” v.v.. Người kể chuyện trong Chiếc thuyền ngoài xa mang trong mình một tâm hồn nghệ sĩ, luôn hướng đến giao hòa và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên “Tôi trở nên ngây ngất vào mỗi buổi sáng, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà đượm một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại” nhưng đồng thời anh cũng mang trong mình tấm lòng của một người lính nhân hậu nỗi xót xa trước cuộc sống của những người dân chài thấm đẫm trong giọng kể: “thường thường mỗi thuyền là một gia đình, ngoài thuyền lớn còn có một chiếc mủng nhỏ để đi lại”.
Người xưa nói: “Văn như kỳ nhân”, xem văn là biết được người, đọc tác phẩm là biết ngay tác giả. Với Chiếc thuyền ngoài xa, thực sự Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rõ nét phong cách văn chương của mình. Chiếc thuyền ngoài xa mãi mãi là những khao khát mà suốt đời muốn tìm kiếm và níu giữ nhưng để rồi khi tới gần người nghệ sĩ mới phát hiện ra những sự thật ẩn sau vẻ đẹp lung linh huyền ảo đó và nhận thức được vẻ đẹp thực sống giữa cái ảo chính là vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người tưởng chừng như bình thường nhất. Cách xây dựng nhân vật cũng thể hiện cảm quan của nhà văn về con nguời. Họ đã đang và sống cuộc sống bình dị, đó là một nhân vật Phùng hóa thân của chính tác giả, một người mà hơn bao giờ hết, hiểu rõ rằng trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy làm một người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người. Đó còn là người phụ nữ không tên với vẻ ngoài xấu xí nhưng chứa đựng trong đó là một tâm hồn thanh cao đến bất ngờ. Tưởng chừng như chị là một người phụ nữ chỉ biết câm lặng và chịu đựng nhưng ít ai ngờ rằng đó là sự hi sinh cao cả đến nghịch lí để đổi lấy một hạnh phúc bình dị “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”. Câu nói của chị mới thực sự xót xa làm sao, nó như xát muối vào trong lòng Phùng cũng như mỗi người đọc để rồi hình ảnh đó cứ ám ảnh mãi khôn nguôi.

Nếu hình tượng tác giả trong văn Nguyễn Huy Thiệp hàm ẩn với bao chiêm nghiệm suy tư về thân phận con người, về cuộc đời với những thiên truyện mang ngôn ngữ trần thuật sắc gọn, hàm súc, nhiều khi trơ trụi, nếu cái Tôi trong thơ Huy Cận là “một linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu” thì hình tượng tác giả trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu chính là một người nghệ sĩ luôn hướng tới cái đẹp trong cuộc sống thực của mỗi kiếp người. Đó cũng chính là nét đặc sắc nổi bật mà nhà văn đã thể hiện trong Chiếc thuyền ngoài xa để rồi khi đã thực sự tìm được câu trả lời cho mỗi nhân vật, mỗi thân phận của ông, chúng ta vẫn không nguôi ám ảnh về cuộc đời của họ bởi có thể đó là những người đang hiện hữu xung quanh mỗi chúng ta.

Trần Thư
Theo vanhocquenha

Nguyễn minh Châu và Thi pháp "Gói rào" trong chiếc thuyền ngoài xa



NGUYỄN MINH CHÂU VÀ THI PHÁP “GÓI RÀO” TRONG CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Bài viết liên quan
+++++++++++

Tổ chức sao cho văn bản đạt đến độ súc tích nhất vốn là đòi hỏi muôn thuở của nghệ thuật ngôn từ. Trong những tình thế xã hội nào đó, đòi hỏi này còn khắt khe hơn, có khi là chuyện sống còn. Khi ấy, văn bản không chỉ là một tiếng nói nghệ thuật cô đúc, mà còn là một ẩn ngữ. Nó trông chờ ở người đọc không phải một tấc lòng tri âm thông thường.


Trong thiên tiểu luận nổi tiếng Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa, Nguyễn Minh Châu từng có những tâm sự cay đắng về viết văn ở ta, rằng nhà văn "vừa muốn phô diễn tư tưởng, chõ miệng ra giữa hai hàng chữ để cảnh tỉnh với đời một cái điều gì đó tiên cảm thấy trong đời sống nhưng lại muốn giấu đi, gói nó trong bao lần lá, rào nó sau bao tầng chữ" [1]. "Gói trong bao lần lá, rào sau bao tầng chữ", cái điều cực chẳng đã ấy, oái oăm thay đã trở thành một nét thi pháp khá phổ biến của chính ông và không chỉ riêng ông. Tạm gọi là thi pháp "gói rào". Đó là cách tổ chức văn bản theo lối phù phép: lấy thực làm hư, lấy hư làm thực; phụ làm chính, chính làm phụ; chìm làm nổi, nổi làm chìm...sao cho tư tưởng ẩn kín, kẻ cạn lòng khó nhận ra, kẻ hẹp lòng khó bắt bẻ. Cũng có thể gọi đó là hư chiêu [2]. Có lẽ khi gói rào, Nguyễn Minh Châu chỉ cầu kĩ, cầu kín để tư tưởng có thể qua được những săm soi thôi. Hẳn ông không mong gói rào trở thành chiêu pháp gì. Ấy thế mà nó đã thành một chiêu đặc sắc, khiến tác phẩm của ông có được sự súc tích của những ẩn ngữ hấp dẫn. Viết trước thời đổi mới, nếu không rành chiêu này, Nguyễn Minh Châu đã không thể có được những tác phẩm độc đáo như Bức tranh, Bến quê, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát, Chợ tết,... đặc biệt là Chiếc thuyền ngoài xa. Đến lượt người đọc, nếu không biết gỡ rào, mở gói thì khó nhận thấy tư tưởng thực được tác giả giấu kín.


1. Gói rào tình huống và triết luận vô ngôn


Mỗi thể loại nghệ thuật là một ngôn ngữ. Dấn thân vào một thể loại thực chất là nỗ lực không ngừng để làm chủ thứ ngôn ngữ ấy. Kẻ viết thường phải qua những trải nghiệm sáng tạo lâu dài, thậm chí sinh tử, mới có thể nói được tiếng nói của nó. Muốn gói rào, càng phải lão luyện tiếng nói này. Còn người đọc, chừng nào nghe được tiếng nói riêng đó, chừng ấy mới có thể xem là đã đọc được nó. Truyện ngắn cũng thế thôi. Truyện ngắn vẫn nói bằng một ngôn ngữ riêng. Thế nhưng, người ta thường đọc truyện ngắn như là truyện thì nhiều, còn đọc truyện ngắn như là truyện ngắn thì chưa nhiều. Ví như, vào một truyện ngắn, mới chỉ dừng lại ở nhân vật, tình tiết, chi tiết, ngôn ngữ... mà chưa nắm bắt được tình huống truyện, thì xem như chưa nghe được tiếng nói thực sự của nó. Vì tình huống mới chính là hạt nhân của một chỉnh thể truyện ngắn [3].

Nhưng chỉ ra tình huống là điều đâu có dễ. Trong những tác phẩm gói rào lại càng không dễ. Chả thế mà xung quanh Chiếc thuyền ngoài xa, vẫn có hai cách nhìn nhận khác hẳn nhau: 1) cho là tình huống nghịch lí [4]; 2) xem là tình huống nhận thức [5]. Vậy tình huống của Chiếc thuyền ngoài xa là nghịch lí hay nhận thức ?

Tôi cho rằng nó gồm cả hai. Tuy nhiên, chúng không đồng đẳng. Có thể nói đây là dạng tình huống "hai trong một". Chẳng phải thế sao? Đọc truyện này, có lẽ ai cũng bị hút vào câu chuyện gia đình hàng chài và xem nó là hạt nhân duy nhất rồi, những tình tiết khác chỉ là râu ria. Theo đó, tình huống truyện được xác định là một tình thế, cụ thể là tình thế nghịch lí. Một người vợ tốt mà luôn bị chồng hành hạ; luôn bị hành hạ dã man mà luôn từ chối mọi can ngăn; cả đời bị bạo hành mà một mực gắn bó với kẻ bạo hành; thà bị bỏ tù chứ nhất quyết không bỏ kẻ hành hạ mình; chồng đánh vợ, con đánh bố; bị chồng đánh đập đau đớn thì nín thinh, nhìn con đánh bố vì che chở mình lại van xin khóc lóc... Một cuộc sống như thế còn gì nghịch lí hơn? Nhưng, đó đã là tất cả chưa? Chưa. Lùi xa một chút sẽ thấy chuyện gia đình này lại nằm lọt thỏm trong một cái khung rộng hơn: chuyến đi thực tế tới làng chài miền duyên hải của nghệ sĩ Phùng. Đây mới là sự kiện trùm lên cả thiên truyện. Bình thường, việc kể bắt đầu bằng một chuyến công tác chỉ là phần dựng, tạo không khí, nghĩa là một phần rất phụ nhằm dẫn vào phần chính [6]. Nhưng đây không thế. Phần tưởng phụ, hóa ra không hề phụ. Bởi trong chuyến đi theo lệnh vị trưởng phòng này, đã diễn ra trong Phùng một cuộc đối chứng âm thầm giữa thực tế khách quan với ý tưởng chủ quan của chính vị thủ trưởng ấy. Một chuyến đi đã phá vỡ hoàn toàn nhận thức lâu nay của Phùng, đảo lộn những gì đã thành lề thói cố hữu trong lối làm nghệ thuật của anh và cơ quan. Trong vai người kể chuyện, Phùng không chỉ muốn kể về một gia đình hàng chài, mà còn muốn trình bày những vỡ lẽ của một nghệ sĩ khi giáp mặt với cái thực tế tệ hại ấy. Bởi thế, kiểu tình huống bao trùm toàn truyện lại là một sự kiện nghiêng về nhận thức. Còn cái tình thế nghịch lí của gia đình hàng chài kia chỉ là một tình huống nhỏ lồng vào tình huống lớn. Và cảnh đời nghịch lí đó chính là nút thắt của cả hai sự nhận thức ở Phùng: 1) nhận thức hẹp về thực trạng cuộc sống; 2) và nhận thức rộng về sự trái ngược giữa thực trạng cuộc sống với ý đồ nghệ thuật của trưởng phòng.

Như vậy, có thể tạm gọi tình huống lớn là "tình huống nguyên phát", còn tình huống nhỏ là "tình huống thứ phát". Ở đây, thứ phát xuất hiện sau mà lại hiện hình trước, trong khi nguyên phát xuất hiện trước nhưng chỉ hiện hình đầy đủ sau khi toàn truyện đã hoàn tất. Kẻ cạn lòng, theo thói quen, thường bị hút hoàn toàn vào tình tiết trung tâm (cuộc sống gia đình hàng chài - thứ phát), dễ quên đi tình tiết dẫn chuyện (chuyến công tác của Phùng theo lệnh trưởng phòng - nguyên phát), bởi xem nó chỉ như phần dựng truyện thôi. Nhưng, đâu chính? đâu phụ? Làm sao nói chắc. Chiêu gói rào này khác nào một trò ẩn nấp, ú tim? Nếu mỗi tình huống là một tiếng nói, thì ở đây ta cần nghe thấy cả hai tiếng nói, chúng vừa song hành vừa hòa giọng với nhau.

Muốn nghe đúng tiếng nói của tình huống, không thể không đặt nó trong tương quan với toàn truyện. Theo tính thống nhất của một chỉnh thể, tình huống, nhân vật và ngôn ngữ trong một truyện ngắn phải ăn nhập với nhau để định dạng cho tác phẩm. Thường thường, một truyện ngắn có tình huống nhận thức làm hạt nhân, thì theo lẽ tự nhiên, nó hay hướng tới một kiểu nhân vật tương ứng là kiểu con người tư tưởng, và tìm tới một ngôn ngữ tương thích là ngôn ngữ nghiêng về triết lí. Đủ cả ba yếu tố này, thì nó có diện mạo chung là truyện ngắn triết luận. Dạng này khéo viết thì mỗi tác phẩm như một thiên triết luận sống động bằng tự sự, còn viết vụng thì thành truyện ngắn luận đề. Không ít truyện của Nguyễn Minh Châu đã sa vào luận đề. Chính ông đã tự thấy nhược điểm đó [7]. Thuộc kiểu truyện ngắn triết luận, Chiếc thuyền ngoài xa đã vượt thoát tính luận đề lộ liễu cũng như lối triết luận quen dùng để trở thành một tuyệt phẩm. Bằng cách nào vậy? Cách gói rào: triết luận mà như không, như không mà triết luận. Tinh thần triết luận ẩn chứ không phô. Hư chiêu là thế. Cả nhân vật và tác giả không cần ra mặt thuyết lý rông dài bằng lời trực tiếp. Đúng như cách ông tâm đắc là khi đã tạo được một tình huống, một cái cốt "có sức chứa gọn chủ đề thì ngòi bút truyện ngắn cũng không cần phải chạy rông nữa, và cũng có thể bớt đi những đoạn biện luận triết lý lòng thòng" [8]. Tiếng nói triết luận của Chiếc thuyền ngoài xa trước hết được ẩn kín trong một cốt truyện với một kiểu tình huống như thế.

Các khía cạnh triết luận được cài trong từng chặng của mạch truyện, gắn với những vỡ lẽ của Phùng. Khía cạnh đầu tiên thật dễ dàng nhận thấy. Bởi nó đã bật ngay lên qua hai cảnh đối lập mà Phùng liên tiếp chạm mặt khi tới làng chài. Cảnh chiếc thuyền ngoài xa tươi sáng, thơ mộng, êm đềm. Và cảnh bạo hành tồi tệ, dã man, nhức nhối của chính cái gia đình sống trên chiếc thuyền đó. Một nhìn bề ngoài, từ xa. Một nhìn vào trong, sát gần. Đối mặt với nghịch cảnh ấy, điều đang vỡ ra trong nhận thức của người nghệ sĩ này là gì, nếu không phải cái đẹp bề ngoài thường che lấp cái xấu bên trong? Đến với cuộc sống mà chỉ đứng ngoài, đứng từ xa, anh sẽ chỉ thấy được cái bề ngoài. Nghệ thuật chỉ bằng lòng với việc "chụp ảnh" cái bề ngoài là thứ nghệ thuật giả dối. Cái đẹp giả dối là cái đẹp phi đạo đức. Người nghệ sĩ chỉ đứng từ xa để vồ chụp hiện thực là người không bao giờ đến được, thấy được sự thực cuộc đời. Kẻ bằng lòng với lối làm nghệ thuật như thế là loại nghệ sĩ hời hợt, vô trách nhiệm với cuộc sống này.

Song, nếu chỉ có thế, tinh thần triết luận chưa khác là bao so với Nam Cao mấy chục năm trước. Vào sâu trong gia cảnh ấy, chứng kiến người vợ hàng chài van xin kể lể ở tòa án, Phùng còn biết thêm nhiều điều khác. Thì ra, phía sau cái dáng chịu đòn đến trơ lì vô cảm kia của người vợ, là sự kiên cường, gan góc. Phía sau bộ dạng chịu xúc phạm đến nhẫn nhục, lì lợm, là đức hy sinh lớn của tình mẫu tử. Phía sau vẻ ù lì thất học, lại là một người sắc sảo, "thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời". Và, khuất sau hành vi côn đồ, vô đạo của thằng con đánh bố, là tình thương sâu nặng dành cho người mẹ. Việc đánh bố của thằng Phác chỉ là hành vi trả đũa manh động của một tình thương bế tắc. Song, bất ngờ hơn là những nhận thức về cái gã hàng chài "độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian". Hẳn ban đầu, nhận thức giản đơn kiểu thời chiến đã khiến Phùng đinh ninh rằng cái xấu cái ác này có nguồn gốc từ phía địch, chắc gã là lính ngụy cũ. Nghe bà vợ nói, hóa ra không. Hơn thế, gã còn trốn lính. Nó có nguồn gốc từ rượu chè chăng? Cũng không. Thậm chí, người vợ ao ước: "Giá mà lão uống rượu...thì tôi còn đỡ khổ". Hay nguồn gốc từ bản tính của lão? Cũng không nốt. Trước, lão vốn là một "anh con trai cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh đập vợ". Và bây giờ, mỗi khi đánh vợ, lão cũng không có bộ mặt hả hê hay lạnh lùng thường thấy ở những kẻ có bản chất tàn ác, trái lại, lão cũng "rên rỉ đau đớn". Không phải từ phía địch, không phải từ tệ nạn xã hội thông thường, cũng không phải từ bản tính. Vậy, từ đâu ? Cách trần thuật như thế dường như đã ẩn chứa câu trả lời. Thì ra, cái ác cái xấu này có nguồn gốc từ tình trạng mông muội về ý thức làm người. Cụ thể là mông muội về giá trị người, giá trị sống. Do tù hãm trong một đời sống quẩn quanh, quay lưng với thế giới bên ngoài, do tự cầm tù trong một tập quán lạc hậu, một kiểu ý thức tăm tối, mà con người và cuộc sống ở đây đã bị hoang hóa [9]. Họ không biết đến thế nào là cuộc sống xứng đáng của con người. Không biết đến quyền làm người, giá trị người. Hạnh phúc lớn nhất đối với họ chỉ là khi con người được ăn no. Họ coi đẻ nhiều con là một cái tội đáng chịu bạo hành. Hành hạ đã trở thành một thứ sinh hoạt thường nhật. Thói tàn nhẫn của đàn ông cũng như sự chịu đựng vô lí của đàn bà, thật oái oăm, đã trở thành phong tục lâu đời. Họ cứ sống hoang dã như loài thú mà vẫn đinh ninh đang sống cuộc sống người. Té ra, gã vừa là tội phạm, lại vừa là nạn nhân. Chẳng phải thế sao? Là kẻ đứng đầu cuộc sống mà luôn bạo hành cuộc sống, lão là tội phạm. Bị chìm lú trong một kiểu ý thức mù lòa trùm lên cả chốn này quá lâu đời, lão là nạn nhân. Đối mặt với những sự thực ấy, điều gì đang vỡ ra trong đầu người nghệ sĩ này, nếu không phải là trong đời sống, cái xấu bề nổi thưòng che lấp những cái đẹp, cái đáng cảm thông bề sâu ? Bởi vậy, một người nghệ sĩ, chỉ đứng ngoài "chụp ảnh" hiện thực, thì không bao giờ hiểu thấu được cuộc đời. Sự thật và cái đẹp sẽ luôn trốn chạy trước họ. Chỉ khi nào đặt trọn vẹn cái tâm của mình vào cuộc đời, luôn dấn thân vào cuộc sống, người nghệ sĩ mới có cơ đến được với sự thật và cái đẹp, mới làm tròn trách nhiệm của mình.

Một khía cạnh triết luận khác hiện lên khi Phùng nhận thức có "cái gì vừa vỡ toang ra trong đầu" bạn mình. Phùng là một nghệ sĩ, Đẩu là một cán bộ tòa án, nên mối quan tâm của họ không giống nhau. Nếu vỡ lẽ của Phùng thuộc mối quan hệ giữa đời sống và nghệ thuật, thì ở Đẩu là con người và những giải pháp xã hội. Vốn là một người lính, Đẩu đã đem nguyên vẹn lối nghĩ thời chiến để hiểu và giải quyết việc thời bình. Thấy "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" mà vẫn khăng khăng gắn bó, gợi ý li hôn lại lạy lục xin đừng, thì Đẩu đã phải kêu lên "không thể nào hiểu được!". Đến khi thấu hết lời người đàn bà hàng chài, thì trong đầu vị Bao công cấp huyện ấy mới có cái gì chợt vỡ toang ra. Trước sự thật ấy, cái vừa vỡ toang kia còn có thể là gì nếu không phải trong cuộc sống, bao việc tưởng vô lí nhưng xem ra lại có lí riêng, nhiều chuyện ngỡ đơn giản, kì thực, hết sức phức tạp? Không thể đem thiện chí và ý chí đơn thuần giải quyết mà xong được. Như thế, Phùng và Đẩu chỉ là hai nửa của một Nguyễn Minh Châu, cùng bày tỏ một mối lo âu chung về cuộc đời, cùng nói lên một nhận thức chung về trách nhiệm của những người chèo lái cuộc sống đối với số phận con người. Song, ngẫm lại, triết luận này dù sâu sắc và đầy trăn trở là thế, nhưng vẫn chỉ là nhận thức hẹp và đâu đã gai góc gì.

Tinh thần triết luận trên được nói lên, chủ yếu, qua tình huống thứ phát. Phải đến khi nó hoàn tất, nghĩa là lúc Phùng rời khỏi làng chài về lại cơ quan kết thúc chuyến đi, thì tình huống nguyên phát mới lộ dạng đầy đủ, nghĩa là khía cạnh nhận thức rộng mới hiện hình. Bấy giờ người ta mới nghe rõ tiếng nói của nó: cuộc sống hoàn toàn khác những gì ông trưởng phòng muốn; tuân theo trưởng phòng, chỉ có thể làm được thứ nghệ thuật xa rời sự thật đời sống, chỉ thành thứ nghệ sĩ vô tâm trước số phận con người. Xem ra, tiếng nói còn ở mức phải chăng trên kia đã gói kĩ, rào kín cái tiếng nói quan trọng và gai góc này. Kẻ cạn lòng đinh ninh câu chuyện chỉ có tiếng nói thứ nhất và không ngờ có tiếng nói thứ hai. Ấy là hư chiêu vậy.

Một tình huống như thế, quả thực, đã giúp tác giả bớt được khá nhiều "lời biện luận triết lí lòng thòng". Nói đúng hơn, tác giả đã giấu kín những lời cần nói vào trong tình huống và mạch truyện, để có thể yên tâm với dạng triết luận vô ngôn - triết luận không bằng lời triết lí.


2. Biểu tượng hay ẩn tượng


Là một thể loại tự sự, nhưng truyện ngắn còn nói bằng cả một loại ẩn ngữ tưởng chỉ là độc quyền của hội họa và thơ ca: những hình ảnh giàu tính tượng trưng. Điều này không còn xa lạ. Tuy nhiên, do tính mơ hồ đa nghĩa và tính độc lập tương đối của nó, nên việc cắt nghĩa những hình ảnh này rất dễ tùy tiện. Sự cắt nghĩa chỉ tin cậy khi đặt nó trong tương quan với toàn thể câu chuyện, tình huống truyện, hay nói theo cách của chính ông, là phải nhìn nó "trong con mắt xét nét của chủ đề" [10]. Tính chất nhận thức, phẩm chất triết luận của Chiếc thuyền ngoài xa chắc chắn sẽ kém sắc nét, nếu thiếu đi tiếng nói từ những hàm ý tượng trưng ẩn trong các hình ảnh, hình tượng bàng bạc khắp truyện. Yêu cầu gói rào đã khiến Nguyễn Minh Châu kiên trì một hư chiêu: mài nhẵn hết những cạnh sắc nhô ra, dìm sâu ẩn ý vào lòng mỗi hình ảnh. Bởi thế những tượng trưng thông thường dường như đã thành ẩn tượng.

Có lẽ ít ai không nắm bắt được hàm nghĩa tượng trưng trong hình ảnh Chiếc thuyền ngoài xa nằm ngay ở nhan đề. Nó là hình ảnh một cuộc sống nhìn từ xa, nhìn bề ngoài tưởng êm đềm, tươi đẹp, thơ mộng; lại gần, vào trong thì tồi tệ, man rợ, nhức nhối. Gần cuối truyện, vẫn là hình ảnh chiếc thuyền ấy, nhưng trước một cơn giông tố lớn đang ập đến. Hàm ý tượng trưng mạnh hơn. Người nghĩ gần chỉ xem nó là cảnh báo về một cuộc sống trước cơn bão bạo lực. Người nghĩ xa có thể thấy nó là dự cảm về cơn bão đổi thay lớn đang đến gần. Đặt trong mạch truyện, nếu nghĩa trước thuộc về lớp nổi, thì nghĩa sau mới thuộc lớp chìm, lớp gan ruột nhất. Dầu vậy, đó vẫn chưa phải những gì khó thấy.

Ở cặp nhân vật trưởng phòng và Phùng thì hàm nghĩa tượng trưng có lẽ kín hơn, bởi có vẻ nó chỉ thuộc phần dựng truyện, thuộc ngoại biên của mạch truyện, chứ chưa phải nội dung chính, y như chả có gì quan trọng. Nhưng, chính đây là một hư chiêu thần tình về mối quan hệ giữa lãnh đạo và nghệ sĩ, chính trị và văn nghệ trước thời đổi mới. Chỉ vài nét mà ra ngay chân tướng trưởng phòng. Ông chỉ muốn thứ nghệ thuật như bộ lịch kia thôi. Bộ lịch "Không có con người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật". Một thứ nghệ thuật không quan tâm đến con người. Hiện thực trong đó chỉ là những hình ảnh thật êm đềm, tươi đẹp và thơ mộng. Dù vào mùa ấy đã hết sương thì cũng phải đi tìm cho bằng được sương. Ông đã muốn, thì phải có. Xa rời thực tế, bất chấp sự thật, chủ quan, duy ý chí, chẳng phải đó là thói quen của lãnh đạo văn nghệ trước đổi mới hay sao? Nếu răm rắp tuân thủ, Phùng chỉ làm được thứ nghệ thuật minh họa cho ý của trưởng phòng. Chuyến vào thực tế này đã khiến anh vỡ lẽ: cuộc sống không phải như thế, nghệ thuật chân chính không phải như thế. Phùng đã lẳng lặng trải qua một đối chứng chua xót giữa nghệ thuật minh họa ý đồ cấp trên và nghệ thuật nói lên ý muốn cuộc sống.

Và cũng trong chuyến thực tế này, Phùng mới thấy ra cái màn sương mà trưởng phòng mong muốn. Suốt cả chuyến đi, màn sương trắng như sữa khi mặt trời chiếu vào có màu hồng hồng là hình ảnh luôn ám ảnh Phùng, và ám vào cả thiên truyện [11]. Đây là hư chiêu đã đến mức quái chiêu. Phải là ngòi bút bậc thầy mới có thể tạo được ẩn ý tượng trưng kiểu ấy. Ông để màn sương tự nói, tịnh không hở ra bất cứ triết lí bằng lời nào về nó. Màn sương hồng tô điểm làng chài - phủ lên cảnh trí một chất thơ để cuộc sống luôn hiện ra trong vẻ êm đềm, tươi đẹp - không khỏi khiến người đọc liên tưởng đến ánh trăng xanh lừa dối từng phủ lên cuộc sống lầm than trong Giăng sáng của Nam Cao mấy chục năm trước. Ở đây, nó là gì, nếu không phải là một tượng trưng về thứ nghệ thuật tô hồng cuộc sống nhan nhản trước đổi mới? Kể lại những đối lập gay gắt giữa cảnh chiếc thuyền ngoài xa êm ả trong sương với cảnh bạo hành dã man nhức nhối, Phùng đã chia sẻ những day dứt trong lòng mình. Anh đang trải qua một đối chứng riết róng giữa nghệ thuật của màn sương hồng và nghệ thuật của cuộc sống lầm than. Tuy nhiên, ở tình thế trong tác phẩm, Phùng chưa thể công khai từ bỏ. Phùng vẫn phải mang bức ảnh màn sương hồng về cho trưởng phòng. Và nó "vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong những gia đình sành nghệ thuật". Điều đáng nói là, nếu nhìn lâu hơn, bao giờ Phùng cũng thấy người đàn bà khốn khổ ấy "đang bước ra khỏi tấm ảnh". Người đàn bà là hiện thân của cuộc sống bấy giờ. Cuộc sống thực không chịu ở yên trong cái bức ảnh hời hợt ấy. Bức ảnh sương mà ngay cả chụp bằng đen trắng cũng cứ thấy hiện ra cái màu hồng hồng của thứ nghệ thuật nặng về tô hồng hiện thực vốn ngự trị suốt thời đó. Vâng, về công việc, Phùng vẫn còn phải giao nộp những bức sương hồng, nhưng, về tư tưởng, ý thức của anh đã xuyên thủng màn sương hồng, lòng người nghệ sĩ này đã thuộc về những kiếp lầm than rồi. Từ sâu thẳm lòng Phùng, đó là cuộc li khai với thứ nghệ thuật mà trưởng phòng chủ trương. Chẳng phải hình ảnh này chính là một tuyên ngôn lặng lẽ ư? Có thể coi Chiếc thuyền ngoài xa là một Giăng sáng của thời đại mới chứ sao! Ở Nam Cao thời trước là cuộc lựa chọn quyết liệt để từ bỏ thứ nghệ thuật là ánh trăng lừa dối, đến với nghệ thuật là tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than, nghĩa là từ bỏ nghệ thuật vị nghệ thuật đến với nghệ thuật vị nhân sinh. Còn ở Nguyễn Minh Châu bây giờ có khác. Cũng day dứt giữa nghệ thuật là màn sương hồng và nghệ thuật là tiếng đau khổ thời mới, nhưng đây là lựa chọn khác, lựa chọn quyết liệt giữa: nghệ thuật vị nhân sinh và nghệ thuật vị cấp trên [12]. Về mặt này, có thể xem Chiếc thuyền ngoài xa chính là một lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa được viết bằng truyện ngắn.

Một ám ảnh khác là những chiếc xe tăng hỏng và xe rà mìn sét gỉ trên bãi biển. Bao giờ cảnh bạo hành cũng diễn ra bên những chiếc xe hỏng này là một sắp đặt đầy ẩn ý thuộc về hư chiêu của Nguyễn Minh Châu. Đã có người lờ mờ cảm thấy trong hình ảnh này chứa một ẩn ý nào đó. Tuy nhiên, cho rằng chúng là một ám chỉ về cái xấu và cái ác kia như một tàn tích của chiến tranh, thì e không sát. Ẩn ngữ nào trong hình ảnh này? Đó là cuộc đối chứng giữa hai thứ bạo lực: bạo lực của thời chiến và bạo lực của thời bình; một đã bị tiêu diệt, một đang hoành hành. Bạo lực này còn chưa lùi xa, đã sinh ra bạo lực khác. Bạo lực thời chiến khủng khiếp là thế đã bị đánh gục. Còn bạo lực thời bình, hóa ra, dai dẳng và đáng sợ hơn nhiều. Bởi bạo lực thời chiến đến từ phía địch, bạo lực thời bình nằm sẵn trong ta. Đây là cuộc đối chứng của hai thứ xe tăng: xe tăng sắt thép và xe tăng mù. Xe tăng sắt thép thì tiêu diệt sinh mệnh con người, còn chiếc xe tăng mù đang hàng ngày trút bạo lực xuống cuộc sống vốn đầy nhọc nhằn này thì hủy diệt thứ khác, khó thấy hơn: phẩm giá người, chất người trong cuộc sống con người. Mà chống lại thứ xe tăng mù này, xem ra, khó khăn phức tạp gấp bội phần. Nhưng không chống được nó, thì rồi cuộc sống sẽ ra sao? đời sống con người, tư cách người, phẩm giá người trong cuộc sống này sẽ ra sao ? Cuộc đối chứng này hẳn sẽ còn ám ảnh lâu dài đối với hết thảy người đọc chúng ta.

Cũng không thể không thấy ẩn ý của Nguyễn Minh Châu trong con dao găm của thằng Phác. Không hiểu sao cái thằng Phác này lại cứ xui tôi nhớ đến thằng bé Heng của Nguyên Ngọc (dưới bút danh Nguyễn Trung Thành) trong truyện ngắn nổi tiếng Rừng xà nu. Đúng là một đứa bé của văn học sử thi và một thằng bé của văn học thế sự. Thời sử thi, người lớn là hình mẫu của trẻ con. Heng hết sức hãnh diện khi thấy mình giống anh lực lượng T'Nú. Thằng bé Heng là hình ảnh của sự tiếp bước, là bằng chứng cho sức sống bất diệt của xà nu: "cây mẹ ngã xuống cây con mọc lên, đố chúng nó diệt hết rừng xà nu này đấy!". Khẩu súng trường phết đít của nó mang niềm tin mãnh liệt của tác giả vào chân lí thời sử thi: "chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!" [13]. Còn ở đây, bố thằng Phác, kẻ đứng đầu đời sống đang nêu một tấm gương xấu xa tồi tệ. Thì thằng Phác là một sự trả đũa đối với người lớn. Con dao găm là niềm lo âu về sự rối loạn trong gia đạo hay lời cảnh báo đau đớn về một tất yếu rằng: hôm nay bố nó đã cầm xanhtuya, thì ngày mai nó sẽ cầm dao găm ? Thật là đáng sợ. Một chiêu pháp hư, một nguy cơ thực.

Có lẽ, trong Chiếc thuyền ngoài xa những hình ảnh kiểu như thế không chỉ có thế.

3. Nói dzậy mà không phải dzậy

Tôi mượn cách nói hài hước này, nhưng để nói đến một khía cạnh hoàn toàn nghiêm túc: cách gói rào của Nguyễn Minh Châu trong lời văn nghệ thuật. Suốt đời, ông luôn miệt mài noi theo các bậc thầy truyện ngắn để gắng đạt tới cái độ"mỗi câu, mỗi chữ, mỗi tình ý đều thấm đượm chủ đề" [14]. Bình thường đã kĩ thế, khi phải gói rào, còn kĩ hơn nữa. Bởi, giờ đây, hơn cả sự súc tích, mỗi tình ý của chủ đề lại còn phải"giấu đi", phải "gói trong bao lần lá, rào sau bao tầng chữ" nữa.

Gói rào đối với tình huống và biểu tượng, dầu sao, vẫn dễ yên bề hơn. Bởi nó có chỗ ẩn náu là tính mơ hồ. Còn với lời văn là loại vật liệu hiển thị, gói làm sao? rào làm sao? quả là rách việc muôn phần. Vậy mà Nguyễn Minh Châu vẫn có hư chiêu độc đáo, gọi vui là "nói dzậy mà không phải dzậy" ! Tức là cách tương tác về ngôn từ trong văn bản thế nào đó để lời hiện ý ẩn, lời hướng này, ý hướng khác, muốn hiểu trúng lời riêng phải đặt vào mạch chung, vào đúng luồng tương tác đó.

Mỗi lời văn trong văn bản thường mang một giọng điệu tương ứng. Giọng điệu là phần hồn của lời văn. Bởi giọng là thái độ cảm xúc của chủ thể, là một hiện thân của tư tưởng tác giả. Trong nghệ thuật của ngôn từ, nhiều khi ý không nằm trong nghĩa của lời mà lại nằm ở giọng bao bọc mỗi lời, bao bọc cả một chuỗi phát ngôn. Việc nhập giọng với lời, tách giọng khỏi lời, tráo giọng cho lời... để tạo những hiệu quả nghệ thuật riêng, đều là dụng công của những tay bút bậc thầy. Đối với yêu cầu gói rào, dụng công này thực sự thành một tuyệt chiêu. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhân vật trưởng phòng là đối tượng bị phê phán. Nhưng phê phán bằng giọng gay gắt trực diện thì bất lợi và thất cách. Nguyễn Minh Châu đã gói thái độ phê phán vào giọng bình đạm, có khi còn là giọng tán dương, hàm ơn nữa. Nếu có phê trực diện thì chỉ như những phàn nàn vặt vãnh vô hại về tiểu tiết tựa hồ trách yêu thôi: "Trưởng phòng tôi là một người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến đến cái mức có khi bọn chúng tôi trong cơ quan phát mệt vì anh". Vì thế, vị lãnh đạo hiện ra toàn bằng những lời đề cao, nào là "sâu sắc", "lắm sáng kiến", nào là "quả quyết", "cặp mắt đầy tinh khôn"... Ngay cả khi nói đến cái chủ trương rất đáng lên án là chỉ muốn làm tập lịch về thuyền và biển, "Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật", tác giả cũng chỉ kể lại khách quan bình thản. Thoáng đọc, hẳn ai cũng thấy thuần những đánh giá ưu ái đấy chứ ! Vậy sắc thái phê phán ở đâu? Ta chỉ thấy thật rõ nét khi câu chuyện dần dần hoàn tất. Nhất là qua sự đối lập gay gắt giữa cái nghệ thuật mà trưởng phòng muốn với cái thực trạng tồi tệ của hiện thực đời sống. Sự đối lập ấy đã lật ngược hết những gì trước đó. Lúc này, nó mới làm bật lên tính chất mai mỉa sâu cay đối với những phẩm chất "sâu sắc", "quả quyết", "tinh khôn", "lắm sáng kiến" kia, cũng như dậy lên cái ý vị chua xót, cay đắng của người kể khi thuật lại những lời quả quyết "Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật" đó. Bấy giờ, càng quả quyết, càng tệ hại. Chúng ta cũng có thể thấy một hiệu quả như thế đối với giọng điệu ngây ngất cùng những lời mô tả đầy hoa mĩ lãng mạn của Phùng trước cái cảnh "đẹp tuyệt đỉnh" ở phần đầu truyện. Chỉ sang phần sau, khi cái thực trạng man rợ, kinh hoàng, vô đạo đức bày ra, những đau xót sâu sắc và chân thực của Phùng trước sự thực đời sống được bộc lộ, ta mới thấy ra thái độ mai mỉa chua xót của Nguyễn Minh Châu đối với sự ngây ngất, với vẻ lãng mạn thơ mộng, với cái được gọi là "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh" đó. Và mai mỉa nhất chính là cái câu tấm tắc tán dương: "chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức". Bởi trong tương quan đối lập này, cái đẹp kiểu đó mới vô đạo đức làm sao! Ghìm thái độ vào giọng, giấu giọng vào mạch, dùng tình huống để đảo lộn giọng trong lời trần thuật, đó chẳng phải một hư chiêu phục vụ yêu cầu gói rào thật kín kẽ của Nguyễn Minh Châu sao?

Là người hết sức am tường truyện ngắn, ông luôn ý thức rằng thể loại khắt khe này không cho phép thừa, dù chỉ là một tiểu tiết vẩn vơ: "Một đoạn tả cảnh, một đoạn đối thoại, một nhân vật chỉ vẽ phác qua hay tả kĩ lưỡng, một sự việc hoặc một chi tiết có hay không có, tất cả đều được qui định bởi con mắt xét nét của chủ đề" [15]. Đòi hỏi trở nên gắt gao hơn khi người viết còn phải gói rào. Đã đọc Chiếc thuyền ngoài xa không thể không biết đến một hư chiêu khác của Nguyễn Minh Châu, tạm gọi là "bâng quơ hóa". Ông tạo ra những nhân vật thoáng qua, những tình tiết không đâu, những lời nói bâng quơ, tưởng chừng chả đáng để tâm, nhưng kì thực, "tất cả đều được qui định bởi con mắt xét nét của chủ đề". Cuộc sống tồi tệ đầy nghịch lí của gia đình hàng chài là hình ảnh thu nhỏ của một thực trạng nhức nhối. Người đàn bà khốn khổ kia là hiện thân của đời sống ấy. Thực trạng có nguy cơ tiêu diệt mất đời sống này. Một nhà văn nặng lòng với đời không thể không trăn trở về những giải pháp. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, qua những nhân vật rất phụ, qua những lời tưởng rất bâng quơ, ta thấy Nguyễn Minh Châu đã kín đáo nói đến nhiều giải pháp. Qua lời của Đẩu, có thể thấy hai giải pháp: hoặc li hôn, hoặc hòa thuận. Li hôn là điều không thể, bởi người đàn bà nặng lòng gắn bó này đã từ chối. Kêu gọi hòa thuận càng không thể, bởi như vậy vô hình trung tiếp tay cho nạn bạo lực, là kêu gọi con người chịu đựng sự bạo hành dã man vô lí, là duy trì tình trạng sống hoang hóa, man rợ, không ra con người. Đây là những giải pháp dễ thấy. Qua lời cô y tá, một giải pháp tiêu cực khác đã được nói lên: từ chối cuộc sống, tẩy chay thực tại - "thà tôi chết già, các anh đừng tưởng, thà tôi làm gái già suốt đời". Người ta sinh ra cần phải sống cuộc đời mình trong thực tại này như một con người, từ chối, tẩy chay đâu phải tích cực. Con dao găm của thằng Phác cũng chính là một giải pháp và là giải pháp vô cùng lo ngại. Bố đánh mẹ đã là điều khốn nạn, con đánh bố còn khốn nạn hơn. Không thể lấy bạo lực vô đạo để giải quyết bạo lực trái đạo được. Nó không những không giải quyết được gì mà còn chính là biểu hiện tệ hại nhất của một cuộc sống man rợ, một thực tại khổ nhục.

Vậy thì giải pháp nào? Thiếu nữ áo tím đẹp như nàng tiên cá đang đợi trên chiếc mủng dập dềnh ngoài bến kia, đứa con gái sắp sửa vào đời đó có được sống cuộc sống xứng đáng với con người không, hay lại lặp lại kiếp sống khốn khổ của mẹ nó? Giải pháp nào cho niềm mong chờ đau đáu, khắc khoải này? Bằng tiên cảm của một nghệ sĩ thiết tha với số phận con người và đất nước, Nguyễn Minh Châu đã đặt kì vọng vào một giải pháp khác, cũng được nói đến ở ngay trong tác phẩm này. Ấy là lại phải cách mạng. Và cũng bằng cách nói có cái vẻ ngoài rất bâng quơ, kì thực đầy tâm huyết, tạm gọi là "quán tính chữ". Để có thể nói được chữ "cách mạng" ấy, ông đã phải gói bọc nó dưới bao lần lá, rào nó bằng bao tầng chữ. Cụ thể, ông đã cho chữ này xuất hiện trước đó qua miệng người đàn bà hàng chài nhiều lần: "từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ ...", rồi "từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho", rồi "mong các chú cách mạng thông cảm cho". Theo cái đà, cái "quán tính" của những chữ ấy, ông mới kín đáo đưa ra chữ cần thiết, nhân khi nói về thằng Phác "giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu cách mạng không về". Do quán tính của các chữ "cách mạng" được dùng trước đó, kẻ cạn lòng dễ đồng nhất chữ này cũng giống, cũng mang nghĩa như các chữ trên kia. Tức là chỉ cuộc cách mạng giải phóng vừa qua. Nhưng không phải. Trước kia, mụ đâu có bị hành hạ thế này. Mụ chỉ bị bạo hành tàn bạo sau khi nước đã giải phóng, cách mạng đã về thôi. Và hiện thời mụ đang bị hành hạ khủng khiếp kia mà. Vì thế, chữ "cách mạng" trong câu "cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu cách mạng không về" đã không còn chỉ cuộc cách mạng đã qua, mà ám chỉ một cuộc cách mạng khác, cuộc cách mạng sẽ cứu người đàn bà ấy khỏi tình trạng hành hạ hiện thời. Đúng vậy, chỉ có thể giải quyết được tình trạng này bằng một cuộc đổi thay lớn, một cuộc cách mạng thật sự thôi. Viết những dòng ấy vào cuối năm 1983, Nguyễn Minh Châu dường như đã tiên cảm về một cuộc thay đổi lớn cần phải đến và đang đến gần. Hình ảnh cơn giông tố lớn cuối truyện đã khắc sâu, tô đậm thêm điều này. Vài năm sau đó, đất nước đã tiến hành một cuộc đổi thay ngang tầm một cuộc cách mạng. Đó chẳng phải là bằng chứng cho tiên cảm tuyệt vời của nhà văn hay sao ? Nhờ chiêu "quán tính chữ" ấy, nhà văn của chúng ta mới có thể kí thác, "cảnh tỉnh với đời một cái điều gì đó tiên cảm thấy trong đời sống" một cách kín nhẹm thế. Thật hú vía, vào năm 1983, kẻ đọc hẹp lòng mà nhận ra nghĩa đó của chữ cách mạng kia, hẳn là "mạng" ông đã bị "cách" rồi.

Một chiêu khác của Nguyễn Minh Châu là "vu hồi chữ". Nghĩa là dạng gói rào, bằng cách: muốn hiểu đúng nghĩa của chữ đang đọc, phải vòng lại sau để hiểu nghĩa của nó được dùng trước đó. Không ít kẻ cạn lòng khi đọc câu kết "Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn vào đám đông" đã yên chí rằng chữ "chắc chắn" này là kết thúc lạc quan. Bởi nó thể hiện sức mạnh, lòng tự tin, hứa hẹn rằng người đàn bà ấy bắt đầu đứng lên để đấu tranh. Bé cái nhầm. Trong toàn truyện chẳng có bằng chứng nào cho thấy mụ có ý đấu tranh cả. Trước sau, chỉ có cam chịu, nhẫn nhục. Vả lại, chữ "chắc chắn" đây có nhằm nói về sức mạnh bên trong của mụ cũng như niềm lạc quan của tác giả đâu! Chỉ cần vòng trở lại đoạn trước, sẽ thấy ngay chữ "chắc chắn" chẳng qua chỉ diễn tả cái dáng miền biển ở nhân vật mà thôi. Bởi, tả dáng đi của gã chồng vũ phu, Nguyễn Minh Châu cũng dùng chữ này: "Lão đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn". Như thế, dáng bước chắc chắn hòa vào đám đông của mụ không phải là tín hiệu của niềm lạc quan, trái lại, thể hiện niềm lo âu của tác giả. Bởi nó chính là khái quát cuối cùng: tình trạng khốn khổ này không hề cá biệt, cả đám đông kia, ai cũng là một người đàn bà như thế.

Phải lão luyện những hư chiêu này, đáng phục thay, cũng đáng thương thay !


Chu Văn Sơn
---
[1]: Theo sách Nguyễn Minh Châu tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009, tr 458.
[2]: Có lẽ đã đến lúc cần phải xem đây là đặc điểm thi pháp độc đáo và phổ biến của những tiếng nói văn học chân chính trong những thời chưa được cởi trói.
[3]: Mỗi truyện ngắn thường xoay quanh một tình huống chủ chốt nào đó. Bởi vậy, nó thường có hai kiểu. Chỉ có một tình huống duy nhất làm hạt nhân thì đó là truyện ngắn nguyên dạng (Sống chết mặc bay, Lặng lẽ Sapa, Lão Hạc, Bến quê...). Khi có tới hai tình huống trở lên tranh chấp nhau làm hạt nhân thì đó là kiểu truyện ngắn đang cựa quậy để thành truyện dài. Mỗi truyện như thế tựa hồ một truyện dài thu nhỏ trong khuôn khổ truyện ngắn (Chí Phèo, Vợ chồng Aphủ, Những đứa con trong gia đình...). Còn tình huống, trong thực tế, cũng có hai dạng phổ biến: dạng tựa vào một sự kiện bao trùm (Sống chết mặc bay, Lặng lẽ Sapa, Lão Hạc, Bến quê, Chữ người tử tù, Vợ nhặt, Rừng xà nu...); dạng nương theo một tình thế chi phối (Hai đứa trẻ, Đời thừa, Những đứa con trong gia đình, Một người Hà Nội...). Song, dù thuộc dạng nào thì nó cũng hiện ra như một khoảnh khắc của đời sống mà tại đó xuất hiện một tương quan bất thường nào đấy khi con người tương tác với con người hoặc với ngoại cảnh. Thiếu cái chút "bất thường" này, khó thành tình huống thực sự. Đúng ra, tình huống chỉ thành hình, khi nhà văn khai thác cái chút bất thường ấy mà đẩy lên thành truyện. Là hạt nhân, nên tiếng nói quan trọng nhất của một truyện ngắn thường cất lên từ tình huống.
[4]: Tác giả bài "Cấu trúc văn bản truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa" cho rằng: "Chiếc thuyền ngoài xa đã sáng tạo ra một tình huống nghịch lý, oái oăm, trớ trêu" (Vietvan.vn)
[5]: Các tác giả sách Ngữ văn 12 Nâng cao (Sách giáo viên), Tập hai, NXB Giáo dục 2008, cho rằng: "Chiếc thuyền ngoài xa xoay quanh tình huống tự nhận thức" (Tr. 67)
[6]: Ví như cách dựng của chính Nguyễn Minh Châu trong Mảnh trăng cuối rừng: một đám lái xe Trường Sơn nằm trên võng ở cánh rừng xăng lẻ, lúc đợi đi chuyến mới, thường đem chuyện mình kể cho đồng đội nghe. Và cuộc hẹn hò làm nên câu chuyện này đã được anh lái xe tên Lãm kể ra trong một lần như thế.
[7]: Trong cuộc "Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu", chính ông nói: "Điều khiến tôi chưa thật thích là trong một vài truyện tính chất luận đề đạo đức để lộ ra quá rõ" (Theo sách Trang giấy trước đèn, NXB KHXH, 1994, tr. 89)
[8]: Đôi điều về truyện ngắn - Theo sách "Nguyễn Minh Châu tác phẩm chọn lọc", NXB Giáo dục Việt Nam, 2009, tr 437.
[9]: Không phải ngẫu nhiên cảnh vật được ông nhấn mạnh khía cạnh hoang dã: "một tiếng vạc rất nhỏ thảng thốt trong bầu sương tít trên cao, nghe như vọng về từ một thời hồng hoang nào đó", "bãi cát hoang vắng", "bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ"v.v..., con người toàn được ví với chim hoang, thú hoang, lão chồng thì "mái tóc tổ quạ", "như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống"..., thằng Phác thì như "chú hổ con từ miền rừng lạc về", "cái chú sói con ấy"v.v...
[10]: Nguyễn Minh Châu - "Đôi điều về truyện ngắn", sách Trang giấy trước đèn (tái bản lần thứ nhất), NXB Khoa học Xã hội, 2002, tr. 314.
[11]: Hình ảnh này xuất hiện ngay từ đầu qua lời nhân vật trưởng phòng và trở đi trở lại suốt cả câu chuyện.
[12]: Chữ này tôi mượn của Xuân Sách, khi ông viết về Hoài Thanh - "Vị nghệ thuật nửa cuộc đời - Nửa đời sau lại vị người cấp trên" (Chân dung văn học)
[13]: Những triết lí nổi tiếng của nhân vật cụ Mết trong Rừng xà nu
[14]: Xem chú thích 15.
[15]: Nguyễn Minh Châu - "Đôi điều về truyện ngắn", sách Trang giấy trước đèn (tái bản lần thứ nhất), NXB Khoa học Xã hội, 2002, tr. 314

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện "Chiếc thuyền ngoài xa"


Bài viết liên quan
+++++++++++

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện "Chiếc thuyền ngoài xa"

Dàn ý:

I.Mở bài:


- Giới thiệu tác phẩm: HCST, nội dung

- Giới thiệu vấn đề: “Chiếc thuyền ngoài xa” đã sáng tạo ra một tình huống nghịch lý, oái oăm, trớ trêu.. Bởi nhờ tình huống này mà tính tư tưởng của tác phẩm mới được thể hiện rõ.

II. Thân bài

1. Một là, nghịch lý giữa đời sống và nghệ thuật.

Cả một tập thể nghệ sĩ nhiếp ảnh trong “dăm tháng” trời đã chụp được “hàng trăm bức ảnh đẹp, chụp công phu …”, được ông Trưởng phòng “là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến” đánh giá là “đẹp thì đẹp thực … và nhất là lại có hồn nữa. Đúng là những bức ảnh nghệ thuật”. Thế mà, cũng chính vì Trưởng phòng thông minh này lại “không thể chọn đủ cho mười hai tháng, vẫn đang còn thiếu một tờ”. Thì ra người nghệ sĩ dù có cố gắng bao nhiêu, nỗ lực bao nhiêu, đầu tư nhiều thời gian, bỏ ra nhiều tâm huyết và trí tuệ bao nhiêu cũng chưa thể đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống. Người nghệ sĩ không bao giờ được thoả mãn, phải luôn coi mục đích nghệ thuật luôn ở phía trước để phấn đấu. Đây có thể coi là thông điệp nghệ thuật thứ nhất của nhà văn.

2.Hai là, nghịch lý giữa cảnh đẹp của thiên nhiên thơ mộng trữ tình và di hoạ chiến tranh. 

- Cái bờ biển ấy , nó “thật là thơ mộng”, “thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu …”, thế nhưng lại có “những bãi xe tăng do bọn thiết giáp nguỵ vứt lại trên đường rút chạy hồi “tháng ba bảy nhăm” (bây giờ sau gần mười năm, đã bị hơi nước gặm mòn và làm cho sét gỉ)…”. Chi tiết này ít nhất cũng mang ba dụng ý nghệ thuật sau:

+ Thứ nhất, nó nhắc nhở người nghệ sĩ đừng bao giờ quên cái nghịch lý của đời sống. Nghệ thuật không chỉ ở cảnh đẹp thơ mộng mà còn ở cả cái hiện thực sần sù gai góc kia.

+ Thứ hai, để bạn đọc khỏi ngỡ ngàng nó như là một sự báo hiệu đưa dần bạn đọc vào chủ đề chính thể hiện ở những tình huống nghịch lý căng thẳng dữ dội hơn. 

+ Thứ ba, nó nhắc khéo bạn đọc bối cảnh ra đời của câu chuyện là chưa xa một thời chiến tranh (chú ý một chi tiết nhỏ “sau gần mười năm”). Mà chiến tranh bao giờ cũng đi liền với sự mất mát, đau thương nên di hoạ, cả ở phương diện vật chất và phương diện tinh thần vẫn còn tồn tại dai dẳng. Do vậy, những điều gì xấu, phi nhân tính được đề cập ở phần sau của câu chuyện cũng không có gì lạ. 

3.Ba là, nghịch lý giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” và cảnh con người lam lũ, vất vả, khổ đau. 

- Phải đến lần thứ năm Phùng mới được “một cảnh “đắt” trời cho”: “… Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?”.

- Phải có một bút lực mạnh mẽ, một sự am hiểu sâu sắc về hội hoạ, một sự nhạy cảm trước cái đẹp mới có thể viết nổi đoạn văn miêu tả “cái đẹp tuyệt đỉnh”, “toàn bích” này. Câu đầu là ước lệ, là cảm nhận chung “một bức tranh mực tàu …”. Các câu sau là những hình ảnh cụ thể với mũi thuyền trôi trong bầu sương mù, vài bóng người cả người lớn lẫn trẻ con, rồi những cái mắt lưới và tấm lưới … Cảnh thật huyền ảo (bầu sương mù trắng như sữa), tinh khôi, tinh khiết (màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào), vừa tĩnh tại (im phăng phắc), vừa sống động (hướng mặt vào bờ). Các tính từ láy loè nhoè, hồng hồng, phăng phắc, khum khum tăng cường thêm độ huyền ảo, như hư như thực. Các so sánh tinh tế trắng như sữa, im phăng phắc như tượng, y hệt cánh một con dơi làm đậm thêm chất tạo hình của bức tranh. Dường như ngôn từ bất lực trước cái đẹp, nhà hoạ sĩ buộc lòng phải đưa “cái tôi” chủ quan tham gia vào “quá trình thưởng thức”: “… đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?” Làm cho bức tranh kia nhuốm thêm “sắc màu” tâm trạng.

- Nhưng oái oăm thay, nghịch lý và trớ trêu thay, cảnh đẹp nhất, có hồn nhất lại là cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất, xót xa nhất!

+ Đó là tiếng quát của gã ngư phủ: “Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.

+ Đó là “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ..”.

+ Đó là một gã đàn ông “mái tóc như tổ quạ … chân đi chữ bát …hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ…”

+ Chưa hết, tiếp theo là cảnh hành hung đánh đập, phi nhân tính rùng rợn: “Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay gắt, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa… chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két …”

Khát vọng tìm đến cái đẹp để mong muốn làm cho con người đẹp lên là rất đáng quý nhưng người nghệ sĩ phải tỉnh táo để nhận ra cái thực tế phũ phàng của đời sống. Và đây cũng là lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi người: hãy tỉnh táo trước cái đẹp. Bất cứ cái đẹp nào cũng rất có thể ẩn chứa những điều phức tạp đi ngược lại hạnh phúc của con người. Cái tình huống nghịch lý này trong Chiếc thuyền ngoài xa đã xua tan màn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh tuyệt đẹp kia để làm trơ ra cái sự tàn nhẫn của đời thường. Người nghệ sĩ không chỉ nhận thấy cảnh đẹp lãng mạn bên ngoài kia mà còn phải nhìn thấy cả cảnh hành hạ man rợ của lão ngư phủ nọ. Đây là bài học, là trách nhiệm, cũng là lương tâm của nghệ thuật.

- Nhà văn đã sử sụng nguyên tắc nghịch lý, đối lập trong xây dựng nhân vật: cái tốt cái xấu lẫn lộn, đan cài với nhau. 

+ Người đàn bà xấu xí thô kệch ấy có vẻ bề ngoài thật quá nhẫn nhục, cam chịu “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng vẫn không chịu “chia tay” với gã chồng vũ phu tàn bạo. Bởi vì, như lời giãi bày gan ruột của người mẹ đáng thương ta mới thấy bà có một tấm lòng hi sinh vô bờ “ … đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. 

+ Còn gã đàn ông kia cũng không hẳn hoàn toàn xấu. Theo lời vợ lão thì đó “ là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập..” . Vẫn theo lời vợ lão thì là do lão “khổ quá” vì làm ăn nuôi con. Rồi đói, khi “ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối… ”. Trước sau thì hắn vẫn là người lao động lương thiện, hơn nữa lại là lao động chính, kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt của mình để nuôi mười mấy miệng ăn. Lão đánh vợ để giải toả những bức bối. Ta hãy để ý khi đánh vợ lão cũng đau đớn “Cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”. Lão cũng không phải là kẻ hiếu chiến, không phải là kẻ chỉ thích gây gổ đánh đấm người khác, bằng cớ là ngay Phùng cũng khẳng định “lão đánh tôi hoàn toàn vì mục đích tự vệ”. 

+ Còn thằng Phác đứa trẻ sớm lam lũ lao động, hồn nhiên và rất thương mẹ… Bên cạnh những phẩm chất ấy trong nó cũng ẩn chứa một tính côn đồ nguy hiểm : sẵn sàng cầm dao đâm bố để cứu mẹ. Nó sớm đã có ý thức báo thù bằng cách lấy bạo lực để ngăn cản bạo lực.
Như vậy, nhân vật trong Chiếc thuyền ngoài xa được cấu trúc với tất cả sự phức tạp của nó, không hẳn xấu cũng không hẳn là kẻ tốt. Xét đến cùng lão chồng vừa là thủ phạm gây ra cảnh đau đớn cho người vợ, cho con đẻ đồng thời cũng lại là nạn nhân của cuộc sống còn tăm tối khốn khổ. Người vợ cũng vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm, mà theo chính lời mụ thì là do “cái lỗi…là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”. Thằng Phác cũng thế, vừa là nạn nhân của thói côn đồ lại vừa là thủ phạm kích động thói côn đồ và chính nó cũng sớm có tính côn đồ. Những nhân vật đó chưa mang chiều kích của nhân vật tính cách với những quá trình phát triển tâm lý nhưng nó đã làm tốt chức năng thể hiện chủ đề tác phẩm. 

III.Kết bài

- Khái quát các ý chính
- Nhận xét đánh giá về nghệ thuật xât dựng tình huống của NMC.

(Sưu tầm)