Jul 7, 2012

Giá trị hiện thực của truyện Những đứa con trong gia đình



Những đứa con trong gia đình- Câu chuyện giàu chất hiện thực về những đứa con trưởng thành trong thử thách khốc liệt của chiến tranh

Bài viết liên quan
++++++++++++

Nguyễn Thi là một nhà văn-chiến sĩ mà cuộc đời và sự nghiệp sáng tác đã để lại nhiều bài học lớn cho cả một thế hệ nhà văn thời chống Mĩ. Ông đã hi sinh ở mặt trận Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Trong di sản viết về chiến tranh của ông, có tác phẩm đã hoàn chỉnh, có tác phẩm mới ở dạng phác thảo nhưng tất thảy đều ngồn ngộn chất sống và giàu tính thẩm mĩ chứng tỏ tác giả của nó là một tài năng văn học lớn. 

Từng sống ở Nam Bộ trước cách mạng và sau này lại tham gia chiến đấu trên chiến trường ấy, Nguyễn Thi rất am hiểu con người và cảnh vật nơi này. Có thể nói ông là nhà văn của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Ông đã trút tâm huyết xây dựng họ thành những nhân vật văn học đáng nhớ đầy cá tính, có lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, sống bộc trực, hồn nhiên, giàu tình nghĩa. 

Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi rút từ tập Truyện và kí xuất bản năm 1978. Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân một lòng một dạ đi theo cách mạng và có những mối thù riêng với quân giặc. Chiến và Việt – hai chị em đồng thời là hai nhân vật chính của tác phẩm không còn cha mẹ. Cha bị địch giết hồi chín năm (kháng chiến chống Pháp), còn mẹ thì chết vì trúng đạn đại bác Mĩ. Họ lớn lên trong sự dìu dắt, đùm bọc của ông Năm (người chú ruột) và sau này là của đoàn thể, đồng đội (một gia đình mới thân thiết của hai chị em). Tuy nói chuyện một gia đình nhưng tác phẩm của Nguyễn Thi có khả năng ôm trùm hiện thực rộng lớn. Số phận của mấy chị em ở đây cũng như cảnh ngộ gia đình họ không phải chỉ có Ý nghĩa cá biệt. Có biết bao người, bao gia đình cũng phải gánh chịu những mất mát và đã vượt lên như thế trong cuộc chiến tranh khốc liệt này. Hình tượng cuốn sổ gia đình được nhắc tới mấy lần trong truyện có ‎ nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé lộ cho ta Ý đồ nghệ thuật của nhà văn muốn qua câu chuyện một gia đình để đề cập đến những vấn đề khái quát hơn. Lời của chú Năm trong truyện đã nói lên điều đó: “Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài nước ta”. Thông thường, sự kháo quát nghệ thuật của Nguyễn Thi là như vậy. Nó luôn tự nhiên như đời sống do bắt mạch thực sự được vào cuộc sống. 

Trên một Ý nghĩa khác, hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức năng lí giải chiều sâu hành động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi chép đủ những sự việc đáng nhớ xảy ra với gia đình lớn của chị em Việt-Chiến, từ chuyện người nào bị giặc giết chết vào ngày nào đến chuyện ai bị chúng nhục mạ ra sao. Đặc biết, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc của các thành viên gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mĩ trên sông Định Thủy. Cuốn sổ- ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy truyền thống và sự tiếp nối. Nó là một hình thức giáo dục lòng tự hào về truyền thống mà chú Năm rất có Ý thức xây dựng cho thế hệ con cháu. Chú nói: “Chừng nào bây trọng trọng, tao giao cuốn sổ cho chị em bây”. Câu nói ấy cũng rất mực tự nhiên mà chứa đầy Ý nghĩa. Chính thế hệ mới sẽ là người viết tiếp những trang mới, vẻ vang cho truyền thống. Không thể nói mọi chiến công mà Chiến, Việt lập được lại không liên quan đến cuốn sổ gia đình này. Kể lại sự việc nhưng không bao giờ quên khám phá chiều sâu của nó chính là thuộc tính bản chất của ngòi bút Nguyễn Thi

Nguyễn Thi rất có biệt tài dựng người, dựng cảnh. Vốn sống của ông phong phú khiến cho các chi tiết mà ông lẩy ra bao giờ cũng như giẫy trên trang sách, rất sinh động. Nhiều nhân vật chỉ xuất hiện thoáng qua trong truyện nhưng đã kịp để lại một ấn tượng khó quên, cả về hành động lẫn ngôn ngữ. Chú Năm của Chiến, Việt thật dễ nhớ với “giọng hò đã đục và tức như tiếng gà gáy”(“Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chú cũng hò lên mấy câu”). Giọng hò của người đàn ông trung niên này tuy không hay nhưng chứa đựng mọt cái gì đó thật tha thiết khiến cho chị em Chiến, Việt tuy rất thấy buồn cười nhưng vẫn rất cảm động. Theo như lời kể trong tác phẩm, ông ít nói, nhưng những câu nói của ông được hai chị em nhân vật chính khắc ghi trong tâm khảm. Nó tương tự như những châm ngôn kết tinh của cả một đời từng trải sông nước, lăn lộn với ruộng vườn và chung thủy một dạ với cách mạng. 

Bên cạnh nhân vật chú Năm, hình ảnh người má của hai chị em Chiến, Việt cũng hiện lên với những nét chạm khắc rạch ròi. Đó là người đàn bà xốc vác, gan dạ, giỏi thu xếp cả việc chung lẫn việc riêng. Nguyễn Thi đã chọn được nhiều chi tiết thật tài tình để xây dựng chân dung con người ấy. Nào là chuyện bà đi đấu tranh về bị cà nông giặc bắn đuổi theo, một trái rơi bịch trước mặt, không nổ, “bà đến dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về”; nào là chuyện bà bế con, dắt con đi đòi đầu chồng từ ấp trong tới ấp ngoài, vượt qua sông về tới quận; nào là chuyện bà tần tảo sớm hôm làm lụng nuôi con, miệng nói, tay làm, chưa dứt câu dặn con mà chân đã “đẩy xuồng ra tuốt giữa sông”… Đặc biệt, chi tiết bà đối mặt với quân thù hai bàn tay to bản “phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân” hoặc “dùa đàn con lại đằng sau tránh đạn” đã cho ta hình dung đặc biệt rõ nét hình ảnh một người mẹ nơi Thành đồng Tổ quốc những năm đánh Mĩ. 

Hai nhân vật được khắc họa rõ nét trong tác phẩm là Chiến và Việt. Chiến là chị. Theo lời chú Năm, cô “không khác mẹ một chút nào”. Ngay cả Việt cũng nhận thấy thế. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho đến lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính han góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái thì ra đi tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Ở cô, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em đi bộ đọi, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ chu đáo, “nói nghe thiệt gọn” khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ, “nhìn hai cháu thiệt lâu” rồi nói: “Khôn! Việc nhà nó thu gọn đươc thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước. 

Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ dù đôi lúc còn tranh giành với em, Việt cong giữ nguyên tính chất của một cậu bé. “Cậu Tư” này trong gia đình có điệu cười “lỏn lẻn” rất dễ thương. Cậu ta thường ngày vẫn hay tranh phần hơn với chị, từ chuyện bắt ếch đến chuyện đòi đi bộ đội trước chị. Cậu còn vô tâm vô tính, phó mặc chuyện nhà cho chị “Tôi nói chị tính sao cứ tính mà”. Trong khi chị bàn những việc phải làm ngày mai, Việt vẫn đùa nghịch “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay” và thú vị quan sát điệu bộ cử chỉ, cách nói năng “in hệt má” của chị. Vào bộ đội rồi, cậu ta “giấu chị như giấu của riêng vậy” vì sợ mất chị trước những lời gạ gẫm đùa tếu của anh em. Trong hành trang người lính của mình, ngoài cái võng, bộ quân phục, Việt còn mang theo cái ná thun-một vật bất lí thân từng gắn bó với Việt từ ngày cậu còn “để đầu trần, mình mẩy tèm lem sình đất từ chỗ móc mương lên, lội tắt trong vườn, đi tìm chim”. Tuy còn rất trẻ con như thế, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm không thua kém ai. Việt đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương, Việt quyết bò đi tìm đồng đội. Nghe tiếng xe, pháo của giặc, Việt nằm chờ với tâm niệm “Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này chỉ còn có mình tao. Mày có bắn táo thì tao cũng bắn dược mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Có bao nhiêu là sự coi thường, khinh bỉ kẻ thù thể hiện qua lời độc thoại ấy. Quả thực, Việt đã là một người lính chững chạc trong khi còn mang đayaf đủ nét thơ ngây, trong sáng, đáng yêu của một cậu bé vừa đến tuổi thành niên. 

Nhìn chung, trong khi xây dựng nhân vật, Nguyễn Thi rất quan tâm đến việc cá thể hóa. Nhân vật nào cũng có những nét riêng, độc đáo, hiện lên mồn một trước mắt độc giả. Chú Năm nói khác mấ Việt, và Việt nói khác chị Chiến. Lời nói của ai thể hiện rõ tính cách người đó. Nhưng mặt khác, nhà văn cũng có Ý thức nhấn mạnh điểm giống nhau giữa họ. Chẳng thế mà ông nhiều lần qua lời chú Năm, qua lời Việt so sánh Chiến với người má của cô, và để người má ấy nói về Việt: “Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi!”. Nói đến điểm giống nhau ở đây là nói đến nét bền vững trong truyền thống một gia đình giàu tinh thần cách mạng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, sống rất mực tình nghĩa thủy chung. Đây chính là điểm nút sẽ giúp ta lí giải được sức mạnh tinh thần giúp các nhân vật vượt qua được thử thách lớn lao, gay gắt đến như vậy. Mở rộng ra, đấy cũng chính là điểm nút khiến mọi chi tiết , sự việc được miêu tả trong tác phẩm quy rụ lại thống nhất ở tinh thần chung là khẳng định những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Nam Bộ trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Nhiều câu nói thốt ra từ miệng chú Năm hay từ miệng má Việt, vì vậy có tầm khái quát triết lí, mang âm vang triết lí của cả một dân tộc bất khuất, dù nó được biểu hiện ra trong một hình thức rất mực giản dị - giản dị đến bất ngờ như câu nói của má Việt: “Người chết có cái vui của người chết, nếu khong người ta sanh con ra làm gì?”. Ở đây, ta có thể nhận ra một đặc điểm trong sáng tác Nguyễn Thi: tính triết lí rất cao nhưng đấy là triết lí của chính cuộc đời- một cuộc đời được tái hiện sinh động qua những biểu hiện mang tính bản chất. Ta có thể chứng minh thêm cho điều vừa nói bằng chi tiết: hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm: “Chị Chiến đứng ra giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước, chị Chiến khiêng lịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên, Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được vì nó đang đè nặng trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác”. Khó mà không dẫn hết ra đoạn văn đầy xúc động này. Nó đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta: có yêu thương, có căm thù, có cái mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có cái quyết liệt nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm linh… Và mùi hoa cam, nó chỉ thoảng qua một lần mà thơm mãi. Trong văn Nguyễn Thi, mùi hương trữ tình này thường chỉ được dùng rất dè sẻn, nhưng chính vì vậy mà nó vô cùng quí, để lại trong lòng người đọc những cảm nghĩ sâu xa. 


Một thành công nữa rất cơ bản của Nguyễn Thi trong Những đứa con trong gia đình là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Ta đã thấy phần nào điều đó qua việc phân tích cái tài của ông khi lựa chọn các chi tiết đặc sắc làm nổi bật cá tính nhân vật ở trên. Cần đặc biệt lưu Ý rằng truyện ngắn này được tổ chức dựa trên dòng hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa. Miêu tả tâm lí của người tỉnh táo đã khó mà ở đây lại là tâm lí của người luôn nằm trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật đặt ra càng khó bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc trạng thái “chập chờn cơn tỉnh cơn mê” đó của nahan vật. Bốn lần Việt tỉnh dậy trrn trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì, nghĩ gì đều được nhà văn miêu tả rất cụ thể, tinh tế và chính xác. Thông thường, mạch hồi tưởng của nhân vật trong bước khởi đầuphụ thuộc rất nhiều vào yếu tố dẫn dụ của ngoại cảnh. Tác giả hiểu điều đó rất rõ. Tâm lí con người tuy phức tạp nhưng vẫn diễn biến một cách lô gic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên, Việt tự nhiên nhớ về những đêm đi soi ếch, nhớ “Khi đổ ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang”. Thế là hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu hò và cuốn sổ gia đình cùng Ý nghĩa của nó. Lần thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun, rồi chiếc ná thun nhắc tới hành trang trong chiếc ba lô ngày nhập ngũ, ngày nhập ngũ là ngày má Việt vừa mất, thế là nỗi nhớ “chuyển vùng” sang hình ảnh của người má thân yêu. Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy khiến Việt liên hệ tới Ý nghĩ thôi thúc ngày đi bộ đội, liên hệ tới chuyện chị em giành nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang bàn thờ má đi gửi bên nhà chú… Nhìn chung, nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm lí con người. Ông đã khéo léo tạo cho tác phẩm một hình thức kết cấu độc đáo tương đồng với kết cấu của những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc một sau vào đời sống tâm hồn của nhân vật. 

Trong khi làm sáng tỏ tâm lí nhân vật, nhà văn đã sử dụng một ngôn ngữ trần thuật đặc biệt phù hợp. Đấy là ngôn ngữ của chính nhân vật nói về mình và kể về người khác, mặc dù bề ngoài có vẻ là ngôn ngữ khách quan của người trần thuật. Điều đó thể hiện ngay ở cách xưng hô rất đỗi thân thương, gắn bó: “Việt” chứ không phải anh hay chú bé, “chị Chiến” chứ không phải cô, chị, “chú Năm” chứ không phải ông Năm, … Điều đó cũng thể hiện ở màu sắc địa phương của lời trần thuật: “Chú nói ít, nhưng đã nhậu vào ba hột là chú nói tới”, “Thím Năm vừa khóc vừa kể thôi là kể”, “hai bên giáp mặt, ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm, hai mắt hứ một cái “cóc”, rồi đi thẳng” … Thật khó kể hết được những ví dụ sinh động như thế. Nhiều người từng biểu dương Nguyễn Thi rất thạo ngôn ngữ Nam bộ. Cần phải thấy rằng, cách sử dụng ngôn ngữ của ông ở đây trước hết có tác dụng làm nổi bật tâm lí những con người sống ở vùng đất ấy, sau nữa mới gọi dậy không khí của một vùng, một thời… 

Những đứa con trong gia đình thể hiện khá rõ tài năng của Nguyễn Thi trên nhiều mặt: khả năng khái quát cao, khả năng dựng cảnh, dựng người và mô tả tâm lí sâu sắc, khả năng vận dụng ngôn ngữ Nam Bộ đầy linh hoạt, biến hóa và cả chất triết lí rất riêng toát lên từ chính hiện thực chứ không phải từ những lời trữ tình ngoại đề của tác giả. Tất nhiên, những phương diện tài năng ấy không biểu lộ riêng rẽ. Chúng hòa lẫn vào nhau hết sức tự nhiên đưa đến sức thuyết phục lớn cho tác phẩm, làm cho độc giả khi đọc tác phẩm không còn thấy đó là văn mà chỉ thấy đó là cuộc đời. 

Nguồn: Phân tích và bình giảng tác phẩm văn học lớp 12, NXB GD, 1997

Nhà văn - Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi



Nhà văn - Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi

Bài viết liên quan
++++++++++++
1. Bốn mươi năm về trước, trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân, Nguyễn Thi đi theo một cánh quân đánh vào Sài gòn với hy vọng là để lấy thêm tài liệu cho mấy cuốn tiểu thuyết còn dang dở. Cũng không loại trừ miền đất ấy đã ghi dấu nhiều kỷ niệm của đời ông, nơi lúc bấy giờ đứa con gái mà ông chưa biết mặt đang sống. Sáu năm ở chiến trường Nam bộ vào thời kỳ cuộc chiến tranh đang diễn ra đầy cam go đó, với Nguyễn Thi lại là quãng thời gian ông thực hiện được nhiều nhất cho những dự định về nghề nghiệp. Nhưng ông đã không trở về. Ông đã ngã xuống ở ngay cửa ngõ thành phố trong một cuộc chiến đấu không cân sức...

2. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Thi được mở đầu bằng giải thưởng văn học Cửu Long năm 1951 cho tập thơ Hương đồng nội với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Cho đến nay hầu như rất ít người biết đến thơ ông, có thể vì chất lượng nghệ thuật của nó. Nhưng cũng vào thời điểm đó ông bắt đầu chuyển sang viết văn xuôi và càng ngày ông càng nghiệm ra rằng mọi thành quả của lao động, ý nghĩa của cuộc đời ông chỉ thật sự có khi ông gắn mình với cuộc sống của nhân dân và chiến sỹ. Năm 1954, tập kết ra Bắc và trước khi trở lại chiến trường miền Nam năm 1962, ông có hai tập truyện ngắn Trăng sáng và Đôi bạn.

Cũng như mọi tác phẩm văn học khác ra đời vào thời điểm bấy giờ, hai tập truyện ngắn Trăng sáng và Đôi bạn đã nhập vào dòng chảy chung của văn học hướng về cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Tình cảm đối với quê hương trong tấm lòng của những người con miền Nam tập kết và của chính những người dân miền Bắc là một thứ tình cảm đặc biệt, là động cơ cho mỗi người trong công việc hàng ngày đã được ông thể hiện khá tinh tế trong các truyện như Quê hương, Đôi bạn, Xuống núi... Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, chi phối mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của xã hội lúc bấy giờ. Dưới nét bút "ký họa" của ông, bức tranh cuộc sống miền Bắc đã góp phần tạo lòng tin cho con người vào tương lai phía trước: đó là tâm thế của những con người được sống trong hoàn cảnh không bị o ép, được cách mạng giải phóng và tự giải phóng mình ra khỏi những ràng buộc do thói quen sinh hoạt lâu trong chế độ cũ. Những truyện ngắn thời kỳ này của Nguyễn Ngọc Tấn có thể nói như một sự tìm đường cho ngòi bút của mình. Mặc dù cốt truyện còn đơn giản, tình huống truyện chưa có sự đặc sắc nhưng ở đây, mạch văn của ông đã thể hiện sắc thái trữ tình đậm nét. Cả trong hai tập Trăng sáng và Đôi bạn, dẫu cùng nằm trong tình hình chung của truyện ngắn miền Bắc thời kỳ này là còn sơ lược, một chiều thì Nguyễn Ngọc Tấn ít nhiều vẫn bộc lộ năng lực của một cây bút truyện ngắn qua một số truyện. Tính "mơ hồ" trong cách gọi tên nhân vật, trong việc thể hiện tâm lý của cô gái nông thôn trẻ có chồng hy sinh đã mấy năm giờ đang có một cuộc sống mới nơi công trường, đang có tình cảm với một chàng trai quê xa, với nỗi chộn rộn náo nức của kẻ đang yêu không thể giấu, lại không hẳn đã quên hình ảnh người chồng cũ, là những phác thảo tâm lý khá tinh tế của ông trong truyện ngắn Đôi bạn. Câu chuyện tình cảm riêng tư trong truyện Quê hương được "thuật lại" từ một điểm nhìn tự phát: đó là câu chuyện giữa hai người phụ nữ không có tên riêng mà nhân vật "tôi" nghe được một cách tình cờ trên một chuyến xe khách từ Hà Nội vào giới tuyến Vĩnh Linh. Từ điểm nhìn đó, việc lồng ghép và gắn kết một cách hợp lý các mối tình cảm riêng chung, đặc biệt là tình cảm đối với quê hương, ý thức trách nhiệm đối với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước đã được ông thể hiện khá đặc sắc. Chủ đề hướng về miền Nam ruột thịt còn được thể hiện trong một số truyện ngắn khác như Trăng sáng, Mặt trận, Món quà tết. Thời kỳ này cách mạng miền Nam đang chịu những tổn thất nặng nề do sự trả thù những người kháng chiến cũ của Mỹ - Diệm. Truyện ngắn Im lặng của ông viết về một người bộ đội miền Nam phát bệnh điên khi nghe tin vợ con ở quê nhà đã bị kẻ thù sát hại, phần nào cũng nói lên sự nhận thức buổi đầu của ông về tính chất khốc liệt trong cuộc chiến đấu không cân sức để bảo vệ bản thân và bảo vệ thành quả của cuộc kháng chiến ở miền Nam. Đây là một sự nhận thức không dễ nhận được sự đồng thuận của nhiều người nhưng với Nguyễn Ngọc Tấn thì đây là một sự mở đầu và điều đó càng biểu hiện rõ hơn trong ý thức nghệ thuật của ông sau khi trở lại chiến trường miền Nam: mặc dù văn mạch trữ tình đã trở thành chủ đạo trong nhiều truyện ngắn và tùy bút nhưng chính sự nhận thức này đã quy định tính nghiêm nhặt trong bút pháp hiện thực trong Ở xã Trung Nghiã và một số ghi chép khác. Đó là lý do khiến cho mặc dù sống và làm việc trong điều kiện hết sức gian khổ ở chiến trường lúc bấy giờ, với bút danh mới: Nguyễn Thi, ông vẫn ghi được hàng ngàn trang tư liệu và viết được một số tác phẩm đặc sắc về cuộc sống và con người miền Nam trong một thời kỳ lịch sử cam go. Những gì còn lại trong di cảo của Nguyễn Thi đã thể hiện sức thanh xuân của một ngòi bút giàu tiềm năng sáng tạo.

3. Trong thời gian sống ở chiến trường Nguyễn Thi là một trong những người chịu trách nhiệm tổ chức tờ Văn nghệ Quân giải phóng và bản thân ông cũng là một cây bút chủ lực của tờ báo này. Ông quan niệm nhà văn cũng như văn chương là phải phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Cho nên ông đã làm tất cả những gì mà một tờ báo ra đời trong hoàn cảnh thiếu thốn của đời sống chiến tranh lúc bấy giờ đang cần; và đặt ra như một thứ kỷ luật cho mình là đi và viết. "Ở chiến trường là phải làm liền, không viết nhanh thì việc mới người mới ào tới, chuyện sự vụ chồng chất, cuối cùng tất cả sẽ mãi mãi chỉ là những dự định". Ông tranh thủ mọi thời gian để ghi chép. Đặc biệt là sau những chuyến đi công tác ở Mỹ Tho, Bến Tre, đi dự Đại hội anh hùng miền Nam về, ông ghi được hàng ngàn trang tư liệu vô cùng quý giá về các sự kiện, con người, về văn hoá dân gian... trong đó có những tư liệu như đã là phác thảo khá hoàn hảo cho những cuốn tiểu thuyết, những truyện ký. Những sáng tác của ông phần lớn được ra đời trong ý thức công dân - nghệ sỹ, trong ý muốn từ bầu nhiệt huyết của mình để có thể truyền ngọn lửa yêu nước đến với người đọc nhất là khi văn học nhận về mình trách nhiệm làm vũ khí chiến đấu và nhà văn là chiến sỹ. Đó là những ghi chép kịp thời dường như còn mang hơi thở nóng hổi của một cuộc sống chiến đấu đầy khẩn trương như Những sự tích đất thép, Đại hội anh hùng, Dòng kinh quê hương, Những câu nói trong đại hội. Cùng với những tác phẩm khác, những sáng tác này ra đời trong cảm hứng sâu sắc của ông về ý thức, về lòng quyết tâm đánh Mỹ của mọi lớp người trên đất miền Nam. Với giọng điệu tráng ca, những bài ký của Nguyễn Thi đã đốt lên trong lòng người đọc ngọn lửa của lòng yêu nước, của ý thức quyết tâm đánh Mỹ đến cùng để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc qua những câu nói từng là phương châm sống của nhân vật: "Đừng lo tôi chết, cứ để tôi ở đây sống với đồng bào" (Nguyễn Thị Hạnh), "Chết, chết thẳng đứng còn hơn sống quỳ" (Nguyễn Văn Quang), "Cứ đánh, trước khó sau quen" (Phạm Văn Cội)... 

Một trong những đặc điểm của văn xuôi giải phóng là nhà văn viết từ cảm hứng anh hùng và các tác phẩm thường ra đời trên cơ sở người thật việc thật. Nói như Nguyễn Minh Châu là các tác phẩm "thường ra đời cùng với các bản tin chiến sự" và là kết quả của các chuyến đi thâm nhập vào thực tế cuộc sống chiến đấu anh hùng của các nhà văn. Phần lớn những sáng tác của Nguyễn Thi, trong đó bao gồm những tác phẩm đã hoàn thiện và cả những tác phẩm chưa hoàn thiện là kết quả của những tháng ngày đi và viết. Nhất quán với mình và cùng nằm trong dòng chảy chung của nền văn học cách mạng lúc bấy giờ, cảm hứng anh hùng là nguồn cảm hứng chính trong sáng tạo nghệ thuật của ông và điều đó đã được thể hiện qua việc lựa chọn đối tượng thẩm mỹ và cách tiếp cận đối tượng. Nguồn cảm hứng đó không chỉ thể hiện ở việc ông dành trọn tâm sức của mình để viết về cuộc sống anh hùng với những người anh hùng có thật ngoài đời mà còn là ở chỗ ông dồn nguồn tình cảm đó của mình để xây dựng nên kiểu nhân vật anh hùng trong cuộc sống chiến tranh, thể hiện con đường đi đến với cách mạng của nhân dân cũng như những khó khăn gian khổ mà cách mạng đã trải qua, đã được nhân dân đùm bọc, che chở. Trong các tác phẩm của ông nhân vật phụ nữ bao giờ cũng là những nhân vật ông dành nhiều tâm huyết nhất.

Anh hùng Quân giải phóng miền Nam Nguyễn Thị Út - thường gọi là Út Tịch - là nhân vật chính trong tập truyện ký Người mẹ cầm súng tác phẩm được giải chính thức Giải thưởng văn học nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu (1960-1965) do Hội đồng Nghệ thuật của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trao tặng. Chị Út là một người phụ nữ mà từ lúc còn đi ở đợ chị đã bộc lộ phẩm chất của một con người không chịu sống trong áp bức khi phản ứng một cách mạnh mẽ cách đối xử tàn tệ của Hàm Giỏi và Hội đồng Thanh. Với bản tính như vậy cho nên chị đã đến với cách mạng một cách tự giác và con đường từ một phụ nữ yêu nước bình thường để trở thành một người nổi tiếng về tài đánh giặc với tư tưởng "còn cái lai quần cũng đánh" đối với trường hợp chị cũng không đến nỗi khó cắt nghĩa. Nguyễn Thi không viết nhiều về những sự thật trần trụi chiến tranh nhưng âm hưởng của Người mẹ cầm súng vẫn là không khí của một đời sống khốc liệt và dữ dội. Truyền thống yêu nước của dân tộc đã được Nguyễn Thi đặt trong mối quan hệ giữa hiện tại với quá khứ và tương lai qua hình ảnh một cô bé đi ở đợ dám chống lại sự áp bức trước đây của chủ nhà và hình ảnh đứa con gái của chị Út Tịch "giống hệt mẹ nó hơn hai mươi năm về truớc" khi đeo khẩu súng quần vo quá gối tiễn mẹ đi dự Đại hội anh hùng hôm nay. Giữa hai hình ảnh này là hình ảnh một "người mẹ cầm súng"- một người phụ nữ coi việc đánh giặc cũng là tất yếu như việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Mối quan hệ này càng được khẳng định thêm trong một truyện ngắn khác, rất giàu chất thơ: Mẹ vắng nhà. Hình ảnh một người phụ nữ đông con nhưng vẫn thu xếp tốt công việc gia đình và dũng cảm, nhiệt tình, hiệu quả trong công việc đánh giặc, một đàn con trẻ biết cắt đặt công việc gia đình để cho mẹ yên tâm đi đánh giặc, qua ngòi bút trữ tình đặc sắc của Nguyễn Thi, quả đã có sức lay động mạnh đến tâm hồn độc giả khi các sáng tác này xuất hiện trong đời sống xã hội lúc bấy giờ. 

Cảm hứng anh hùng không chỉ đã cho Nguyễn Thi viết nên thiên truyện ký Người mẹ cầm súng lấy cảm hứng từ người anh hùng Nguyễn Thị Út mà nguồn cảm hứng đó còn tiếp tục nuôi dưỡng ngòi bút của ông qua Ước mơ của đất - tác phẩm cuối cùng cũng ra đời từ cảm hứng về anh hùng Nguyễn Thị Hạnh, người phụ nữ đã vượt qua muôn vàn tình huống ngặt nghèo để móc nối, tổ chức cuộc đấu tranh phá ấp chiến lược vào thời điểm cuối những năm năm mươi. Rồi Sáu (Sen trong đồng ), cô gái đến với cách mạng một cách hồn nhiên khi nhận rõ sự khác nhau trong bản chất giữa ta và địch nên đã vượt qua được những trận đòn ghê rợn của kẻ thù. Một nghịch lý mà kẻ thù không ngờ được là khi các ngón đòn của chúng càng tinh vi và dã man thì lòng tin của nhân dân càng tỏ ra vững vàng. Đó còn là cô gái đất Ba Dừa tham gia cách mạng với một thái độ nhiệt tình hăng hái, chủ động và tự tin trong công việc. Cái giống nhau giữa những người phụ nữ này là trước khi đến với cách mạng, họ là những người nghèo. Từ những hoàn cảnh khác nhau nhưng cùng có chung một xuất phát điểm là không chịu sống quỳ, là nhu cầu cơm ăn áo mặc, họ đã gặp gỡ với cách mạng rồi càng ngày càng gắn bó hơn với cách mạng. Nguyễn Thi đã miêu tả các ngả đường đến với cách mạng từ tự phát đến tự giác của những người phụ nữ nông dân. Có thể sự miêu tả quá trình đó còn có phần phẳng phiu nhưng điều mà Nguyễn Thi muốn gửi gắm, khẳng định đó là con đường không thể khác.

Viết về chiến công đánh giặc của nhân vật anh hùng trong đời sống hiện tại nhưng Người mẹ cầm súng đã vượt ra khỏi lối truyện ký thông thường vẫn bám chặt vào các sự kiện, bị lệ thuộc vào sự kiện. Nguyễn Thi đã sử dụng lợi thế của khoảng cách sử thi để tạo điều kiện cho những yếu tố huyền thoại xuất hiện trong tác phẩm một cách hợp lý tạo sự gần gũi giữa nhân vật và người đọc và gây được hiệu ứng nghệ thuật: anh hùng Nguyễn Thị Út đã từ cuộc đời bước vào trang sách rồi từ tài hoa, tâm huyết của Nguyễn Thi, hình tượng chị Út có một sức sống mới, tiếp tục đi trở lại đời sống. Cũng như Anh Đức đã sáng tạo ra một nhân vật chị Sứ đặc sắc trong tiểu thuyết Hòn Đất xuất phát từ một nguyên mẫu có thật ngoài đời. Hai hình tượng nhân vật phụ nữ, qua hai bút pháp của Nguyễn Thi và Anh Đức, ở hai thể loại, tuy mang hai tính cách khác nhau nhưng cùng đạt đến mức độ điển hình trong văn học Giải phóng những năm sáu mươi. Bên cạnh đó Ước mơ của đất, Sen trong đồng, Cô gái đất Ba Dừa, kết hợp kể và tả, ông đã thuyết phục người đọc bằng lối viết mộc mạc và sức thuyết phục của những sáng tác này lại nằm ở câu chuyện cuộc đời của nhân vật.

Nếu như bối cảnh của Người mẹ cầm súng là bối cảnh của thời kỳ Đồng khởi và quá khứ của nhân vật như một sự nối dài hiện tại nhằm khẳng định phẩm chất anh hùng của nhân vật thì Ước mơ của đất (và cả Sen trong đồng, Cô gái đất Ba Dừa) Nguyễn Thi đã cắt nghĩa sức mạnh nội lực để những người phụ nữ này có thể làm được những điều mà một người bình thường không thể làm. Lý giải điều này ông cho đó là lòng tin vào con đường mà nhân vật đã chọn. Ước mơ của đất vì thế có ý nghĩa là ước mơ của những con người gắn bó với mảnh đất đó, sống chết với mảnh đất đó. Đó là ước mơ giải phóng, không chỉ ra khỏi ấp chiến lược mà cao hơn, ra khỏi mọi sự áp bức.

So với Người mẹ cầm súng, những sáng tác khác trong di cảo của Nguyễn Thi có xu hướng nghiêng về hiện thực khi tác giả đặt họ vào một đời sống được miêu tả thô ráp và trần trụi hơn. Dĩ nhiên đây là truyện ký, ghi chép viết theo xu hướng sử thi, lại chưa được hoàn thiện nên việc tác giả không đi sâu vào diễn giải các trạng thái tâm lý hoặc mô tả tỉ mỉ sự ác liệt của các trận chiến đấu cũng là điều có thể lý giải được. Tuy nhiên ở Sen trong đồng khi xây dựng nhân vật Sáu như một hình mẫu đẹp đẽ về niềm tin trong sáng của quần chúng nhân dân đối với cách mạng, Nguyễn Thi đã xử lí thành công sự chiến thắng của lòng tin trong sáng ở cô trong bối cảnh kẻ thù giở mọi mánh khóe mưu mẹo lừa gạt, đánh vào chỗ yếu nhất của cô: tri thức khoa học. Những trang viết về trạng thái tâm lí của nhân vật khi vào tù, khi bị tra tấn, khi chứng mắt trông thấy sự phản bội của những người cách mạng, sự hoang mang khi những kẻ chiêu hồi chơi đòn hiểm đánh vào tâm lí của một người trung thành nhưng ít học... là những trang viết đặc sắc. Có thể nói Sen trong đồng là một trong số không nhiều những tác phẩm đã xử lý một cách nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa cách mạng và quần chúng.

Bên cạnh chị Út, Hạnh - những con người anh hùng đi từ cuộc đời vào tác phẩm, Sáu là hình ảnh về một người phụ nữ miền Nam kiên trung bất khuất, là hình ảnh về cô gái đất Ba Dừa với vẻ đẹp của sự mạnh mẽ, năng động, tự tin. Trong những trang viết đó, Nguyễn Thi đã nhìn ra những vấn đề, những mâu thuẫn nảy sinh ngay trong nội bộ và cuộc đấu tranh này cũng gian khổ không kém. Không chỉ là sự phản bội của những người vốn có chung một lý tưởng như ở trong Sen trong đồng, trong Cô gái đất Ba Dừa còn là thói, ganh ghét, coi thường phụ nữ. Cũng qua ghi chép này ông đã cảnh báo về sự tan vỡ hạnh phúc gia đình có thể xảy ra ở những người phụ nữ tham gia công tác khi mà dưới con mắt của họ tiêu chí về con người xã hội trở thành thước đo đầu tiên, quan trọng nhất đối với chồng; khi mà niềm say mê công việc chung lấn át thời gian và tình cảm dành cho riêng tư... 

Biết nắm bắt và chắt lọc những điển hình trong cuộc sống, Nguyễn Thi còn là cây bút có khả năng thổi hồn cho nhân vật cuộc đời như chị Út, chị Nguyễn Thị Hạnh trở thành những hình tượng văn học. Những tác phẩm này của Nguyễn Thi, đứng về mặt thể loại, là những đóng góp suất sắc của ông cho thể truyện ký - một trong những thể loại mang tính đặc thù của một thời kỳ lịch sử. Đó là lịch sử đất nước những năm chiến tranh, văn học với yêu cầu là "tấm gương soi lịch sử" về một cuộc chiến tranh nhân dân, lịch sử về sứ mạng của nhà văn là chiến sỹ trên mặt trận của Đảng. Trong những ngày lăn lộn với cuộc sống đó, một mặt ông vừa có những sáng tác kịp thời, mặt khác ông còn có sự chuẩn bị song hành cho những dự định dài hơi. Đây là một công việc khó khăn mà nếu nhà văn không có tư chất đích thực của một nghệ sỹ thì trong hoàn cảnh ấy tư chất công dân dễ lấn át, nổi trội và rồi nhà văn sẽ chỉ có những sáng tác mang tính kịp thời. Ở xã Trung Nghĩa, tiểu thuyết duy nhất dẫu chưa hoàn thiện vẫn là một sự chuẩn bị, một bứt phá của tư chất nghệ sỹ ở Nguyễn Thi. Trên nền sự hiểu biết thông thuộc về đời sống và vấn đề cốt lõi của cuộc cách mạng miền Nam, Nguyễn Thi đã thể hiện một cách đặc sắc hiện thực nông thôn miền Nam những năm sau hiệp định Giơnevơ qua bút pháp hiện thực nghiêm nhặt, dự báo một cây bút tiểu thuyết tài năng .

Chọn bối cảnh lịch sử của Ở xã Trung Nghĩa vào thời kỳ những năm sau Hiệp định Giơnevơ - một thời kỳ mà cách mạng miền Nam ở vào tình thế gay go nhất, Nguyễn Thi đã chọn cho tác phẩm một tình huống đắt giá để nhân vật được đặt vào những cuộc đụng độ, những thử thách. Lúc này lực lượng kháng chiến phần lớn đã tập kết ra miền Bắc, một bộ phận còn lại rút vào bí mật. Miền Nam thuộc quyền kiểm soát của đối phương. Tính chất căng thẳng của cuộc đối đầu ngay từ những trang viết đầu tiên đã toát ra từ không khí của làng xã từ dáng vẻ, cử chỉ và những câu đối thoại giữa đại diện Hiếm và ông Tư Trầm. Không khí ấy càng trở nên oi ngột hơn sau khi ông Tư Trầm biết Hai Khê đã bị bắt và vợ Hai Khê trong nơm nớp lo ngại có kẻ nhìn thấy cuộc đến thăm của ông. Độ căng của không khí oi ngột càng dữ dội hơn khi ngòi bút tác giả đã miêu tả cảnh vợ chồng ông Tư Trầm trò chuyện trong đêm người nói chỉ nói ra một phần nhỏ điều mình nghĩ, còn người nghe thì đang cố đoán ra những gì mà người nói chưa nói hết trong cảnh "tiếng chó sủa lúc gần lúc xa, đầy rẫy sự ngờ vực đinh tai nhức óc". Tất cả những sự kiện đó dồn dập xảy ra trong một không gian làng chật hẹp, trong không gian tâm tưởng của Tư Trầm. Cảm giác bất an về một tai họa như đang treo lơ lửng trên đầu khi trước mắt, những nhu cầu thiết yếu của đời sống như cơm ăn áo mặc, mà trước mắt là sự giao lưu tối thiểu của người dân đang bị tước đoạt.

Đặc sắc của ngòi bút Nguyễn Thi được thể hiện trong việc cho người đọc nhận diện nhân vật qua thần sắc dung mạo, qua ngôn ngữ và thái độ giao tiếp. Đại diện Hiếm luôn cố giữ một vẻ ngoài lịch sự để lấy lòng dân nhưng khi đối diện với Tư Trầm, một gia đình thuộc diện bảng đen thì hắn đã bộc lộ mình trong màn độc diễn: "vừa mới sởi lởi chào" "mặt bỗng lạnh lại như mặt người chết" với nụ cười "vụt nở như miệng cua". Cho hắn có một hình thể quá đặc biệt, một lối nói chuyện, vào chuyện cũng rất đặc biệt, Nguyễn Thi đã tạo sự nhất quán trong việc thể hiện bản chất con người hắn: "vũ không dũng thì phải có mưu, tay không tinh thì miệng phải giỏi, có gan thì lộc nhuận mới đến nhà". Và Nguyễn Thi đã tiếp tục một bước khác trong việc hoàn thiện chân dung nhân vật này khi chị Hai Khê bế đứa con còn đỏ hỏn lên công sở xin hắn cái giấy đi thăm chồng, trong sự bố trí màn kịch để bắt bà Tư Trầm khi bà sang thăm chị Hai Khê vừa đẻ dậy. Đặc tả của Nguyễn Thi về chân dung của đại diện Hiếm còn được tiếp tục thể hiện trong thế tương hỗ với cảnh sát Âu trong sự đua tranh quyền lực thông qua hai phương tiện đi lại hàng ngày của chúng. Hay như tính cách của nhân vật Ba Sồi không chỉ đặc biệt ở ngoại hình con mắt chột mà qua cả thái độ của mụ với cái "mặt mũi phừng phừng", "đôi lông mày nhướng lên quá trán", qua "cái dáng như điên như dại của mụ" mỗi khi mụ chửi bới, khi việc "ngày ngày người ta nghe tiếng mụ xa xả ở đầu xã, cuối xã, giống như những con quạ đói vẫn kêu vang lên mỗi buổi chiều tối ngoài gò mả". Cung cách đó là cung cách của những mụ đàn bà nanh nọc; như Hàm Giỏi trong Người mẹ cầm súng từng "quyết đánh Út cho lòi thịt lòi cá ra" chỉ vì Út đói quá nên đã trót ăn ít thức ăn của con mụ. Chỉ với "cái lưng cong như trái me đen cháy" với "đôi bàn chân mang màu phèn mốc" và "áo vắt vai lưng quần lá nem vận một nùi dưới lớp da bụng bèo nhèo" Nguyễn Thi đã chứng tỏ kỹ năng chạm trổ tinh vi trong khắc họa dung mạo nhân vật. Tuy nhiên, với nhân vật người nông dân, Nguyễn Thi chú trọng nhiều hơn ở phần bản lĩnh, tình nghĩa và tính cách nhân vật cũng hiện lên ở khía cạnh đó. Khác với chị Dậu chỉ vùng lên trong thế tức nước vỡ bờ, chị Hai Khê là người chủ động khi nhịn miệng nuôi con chứ không chịu cho con đi ở đợ và chống trả mụ Ba Sồi quyết liệt khi mụ đến đuổi nhà. Cũng như bà Tư Trầm chấp nhận việc đi thăm chị Hai Khê tức là chấp nhận sự rủi ro sẽ đến và khi nó đến rồi thì bà chỉ có lo cho mẹ con chị hơn là lo cho bản thân mình. Có thể nói đã tùy theo nhân vật mà Nguyễn Thi có cách chiếu điểm nhìn để phát hiện ra các điểm sáng trong từng tính cách.

Để thể hiện một cách đắc địa tính chất ác liệt của một cuộc đối đầu thầm lặng, Nguyến Thi đã sử dụng trong Ở xã Trung Nghĩa nhiều giọng điệu khác nhau. Trước đây ta gặp một giọng điệu sử thi bao trùm lên hầu hết các sáng tác của ông, đặc biệt là những truyện ký được in trước khi ông mất. Nhưng với tác phẩm này ông đã sử dụng hai giọng điệu mới. Đó là giọng điệu giễu nhại và giọng điệu trắc ẩn. Ngay trong những trang mở đầu, giọng điệu giễu nhại đã được ông thể hiện trong việc miêu tả cái trụ sở làm việc của chính quyền đến chân dung các vị chức sắc, từ việc thể hiện thói đạo đức giả của đại diện Hiếm, thói học đòi nhưng nhiều khi "phép lịch sự không thắng nổi cái cốt du côn gác chợ" của cảnh sát Âu, đến thói phàm ăn của thứ "gà què ăn quẩn cối xay" ở Ba Kỳ, thói "hễ thấy hơi đồng thì mê" của vợ chồng Ba Sồi. Sử dụng giọng điệu này là một cách để cho người đọc nhận diện nhân vật kẻ địch của Nguyễn Thi. Thế nhưng khi trở lại với nhân vật người nông dân Nguyễn Thi lại sử dụng giọng điệu trắc ẩn, xót xa thấm từ lời dẫn chuyện đến việc miêu tả tình cảm, qua hình dáng, cử chỉ đến tâm trạng. Duy nhất một lần Nguyễn Thi nói một cách đặc sắc về cảm giác ngỡ ngàng sung sướng của vợ chồng ông Tư Trầm suốt một đời đi làm thuê, nay được chia ruộng đất. Còn khi miêu tả tâm trạng họ trong nỗi lo nguy cơ bị cướp ruộng thì giọng văn của ông u ẩn và đau xót: hai người già cả đơn côi cô quạnh với tâm trạng nặng nề trong khung cảnh một đêm sâu với một không gian có vầng trăng đỏ tứa, có tiếng chó sủa rộ, tiếng mõ báo động... Mô tả cảnh bọn địch ập vào nhà Hai Khê bắt quả tang việc các gia đình bảng đen đi lại với nhau, Nguyễn Thi đã sử dụng cả hai giọng chủ âm của tác phẩm. Đó là giọng châm biếm trong khi vạch trần các vai diễn vụng trong một lớp kịch xoàng của cái gọi là đại diện cho chính quyền, nhưng lại sử dụng giọng điệu cảm phục, trân trọng trước nghĩa khí của những người nông dân nghèo trong cơn hoạn nạn. Sự pha trộn giọng điệu này còn được tiếp tục trong phần ông viết về cảnh những người dân Trung Nghĩa đi tập trung làm khu trù mật. Bên giọng điệu khinh bạc đối với lũ ăn tham vô học đang tạm thời nắm giữ quyền hành, là giọng điệu hài hước qua những câu chuyện đậm chất dân gian của Ba Lung, bên giọng điệu mỉa mai riễu cợt khi kể lại buổi lễ khánh thành con đường đến khu trù mật là giọng điệu xót thương khi viết về câu chuyện lấy vợ tậu nhà của vợ chồng hai Rô và cảnh ông Tư Trầm lên đòi trả vợ về. Những giọng điệu đó đan xen với nhau tạo nên một hiệu quả đặc sắc trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. 

Chỉ mới 3 chương nhưng Ở xã Trung Nghĩa đã thể hiện được những gì tinh túy nhất có trong văn tài của cây bút chiến sỹ này. Với những câu văn chắc nịch và đầy sức gợi cảm Nguyễn Thi đã trở lại một đề tài không mới nhưng không hề cũ, kể cả cho đến thời điểm này. Đối với người nông dân ruộng đất vẫn là vấn đề quan trọng nhất. Cho nên đem lại ruộng đất cho người nông dân cũng có nghĩa là Cách mạng đem lại cho họ cuộc sống và Bảy Kiệt, Ba Sồi cấu kết với đại diện Hiếm, cảnh sát Âu âm mưu cướp lại ruộng đất của họ cũng có nghĩa là đẩy họ vào tình thế buộc phải đứng lên cầm súng. Từ xuất phát điểm đó, Nguyễn Thi đã có một cách lý giải đặc sắc con đường đi đến với cách mạng cho nhân vật của mình. Và ông đã kết hợp hài hòa lòng yêu quê hương xứ sở với lòng yêu cách mạng của những con người vốn trọng tình, trọng nghĩa. Đặt Ở xã Trung Nghĩa vào trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Thi, chúng ta nhận ra được sự liền mạch của ông trong những vấn đề nóng sốt của cách mạng, đồng thời cũng thấy sự vượt lên của ông trong việc chuẩn bị cho những bước đi lâu dài...

Những tháng năm ở chiến trường Nguyễn Thi đã làm việc hết mình và có nhiều đóng góp của ông cho nền văn học Giải phóng, nền văn học ra đời trong chiến tranh và phục vụ cho cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc. Ngoài những truyện ký nói trên Nguyễn Thi còn có nhiều truyện ngắn khác thể hiện được những thế mạnh của một cây bút trữ tình mà tiêu biểu là Mẹ vắng nhà và Những đứa con trong gia đình. Những sáng tác này đặt vào trong thế giới nghệ thuật của ông là một thứ bổ sung hoàn hảo cho tinh thần của một cuộc chiến tranh nhân dân. Sinh thời Nguyễn Thi đã từng "im lặng mà viết, im lặng mà đọc sách, im lặng mà suy nghĩ, im lặng để rất ít nói về mình" (Nguyễn Trọng Oánh). Dẫu rằng bốn mươi năm về trước, Nguyễn Thi đi vào cõi vĩnh hằng mà không kịp nói lời vĩnh biệt thì những sáng tác mà chúng ta có được từ hôm nay đã nói về ông rất nhiều. Những bi kịch trong đời sống tình cảm riêng tư mà một cá tính Nguyễn Thi từng chịu đựng, vượt qua và coi việc "đi, viết, ghi chép" như một lẽ đương nhiên không thể khác khiến chúng ta càng cảm phục nghị lực phi thường của ông. 

Ông hy sinh vào tuổi bốn mươi, tuổi mà năng lực sáng tạo đang ở vào độ chín. Sau chiến tranh, không ai biết đích xác mộ phần ông nằm ở đâu dù biết nơi ông hy sinh là đường Minh Phụng. Giờ, con đường ấy được mang tên ông. Trong sự nghiệp văn học cách mạng, nhà văn - liệt sỹ Nguyễn Thi là một hình ảnh đẹp. Tên tuổi của ông xứng đáng đứng vào hàng ngũ những nhà văn tiêu biểu của nền văn học chống Mỹ.

PGS.TS. Tôn Phương Lan
Phòng Văn học Việt Nam đương đại

Phân tích truyện Những đứa con trong gia đình



Phân tích truyện Những đứa con trong gia đình 
Bài viết liên quan
++++++++++++
I . Mở bài 

Nguyễn Thi là nhà văn gắn bó sâu sắc với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ . Tác phẩm tiêu biểu của ông là Những đứa con trong gia đình . Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng. 

II Thân bài 

Những đứa con trong gia dình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi viết ngay trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt khi ông công tác ở tạp chí Văn nghệ quân giải phóng năm 1966. Nhân vật chính của truyện là Việt .Việt là một chiến sĩ giải phóng quân.Ông nội và bố Việt bị giặc giết hại,Mẹ Việt một mình nuôi con vất vả rồi cũng chết vì bom đạn.Gia đình chỉ còn lại Việt, chi Chiến, thằng Út em ,chú Năm,và một người chi nuôi đi lấy chồng xa.Truyền thống ấy được chú Năm ghi tất cả vào cuốn sổ gia đình.Việt và Chiến hăng hái đi tòng quân giết giặc,Trong một trận chiến đấu,Việt hạ được một chiếc xe bọc thép của địch nhưng lại lạc đồng đội và bị thương nặng ngất đi tỉnh lại nhiều lần.Mỗi lần tỉnh lại,dòng hồi ức lại đưa anh về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má,về chị Chiến,chú Năm,đồng đội và anh Tánh…Anh Tánh và đồng đội tìm được Việt, đưa về điều trị một bệnh viện và sức khoẻ Việt dần dần hồi phục.Chuyện được kể theo dòng hồi ức của Việt trong những lần ngất đi tỉnh lại ấy.

Đặc sắc của truyện là đã dựng nên được hình tượng những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, thuỷ chung, son sắt với cách mạng. Những con người này có những nét chung thống nhất, thể hiện rõ đặc điểm của nhân vật Nguyễn Thi. Đó là:Căm thù giặc sâu sắc ; Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu giết giặc ; Giàu tình nghĩa, rất mực thuỷ chung son sắt vời quê hương và cách mạng. Tuy nhiên, trong cái dòng sông truyền thống của gia đình ấy, “mỗi người một khúc”, có nét tính cách riêng, không ai giống ai. Đó chính là điểm nói lên tài năng của Nguyễn Thi.

Trong dòng sông truyền thống gia đình này, chú Năm là khúc thượng nguồn, là nơi kết tinh đầy đủ hơn cả truyền thống của gia đình. Chú hay kể sự tích gia đình. Chú là tác giả cuốn sổ gia đình ghi chép tội ác của giặc và chiến công của các thành viên trong gia đình. Chú Năm là người lao động chất phác nhung giàu tình cảm. Tâm hồn chú Năm bay bổng, đạt dào cảm xúc khi cất lên tiếng hò. Những lúc đó, chú Năm như đặt cả trái tim mình vào trong câu hò, tiếng hát. 

Cùng với chú Năm, má Việt cũng là một hiện thân của truyền thống. Đây là một hình tượng người phụ nữ mang đậm những nét tính cách của nhân vật Nguyễn Thi. Rất gan góc, căm thù giặc sâu sắc. Rất mực thương chồng, thương con, đảm đang, tháo vát. Cuộc đời lam lũ, vất vả chồng chất đau thương tang tóc, nhưng cắn răng nén chặt nỗi đau thương của mình để nuôi con, đánh giặc. Một tay bồng con, một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng; hiên ngang đối đáp vời kẻ thù mà “hai bàn tay to bản” vẫn “phủ lên đầu đàn con đang nép đước chân”; mỗi lần bọn lính bắn doạ “mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển”... Đó là hình ảnh của sự gan góc, chở che mang ý nghĩa biểu tượng về người phụ nữ ở một xứ sở như đất nước ta, cuộc sống thì lam lũ vất vả, chồng chất đau thương nhưng con người lại rất đỗi kiên cường, cao cả. Má Việt đã ngã xuống trong một cuộc đấu tranh nhưng trái cà-nông lép má nhặt đem về vẫn còn nóng hổi. Trong quan niệm của Nguyễn Thi, người mẹ ấy cái phần thác chỉ là thể phách còn linh hồn thì bất tử, sống mãi tròng những đứa con. Không phải ngẫu nhiên mà vào cái đêm sắp xa nhà đi chiến đấu, những đứa con đểu cảm nhận không phải ai khác mà chính là người mẹ đã hiện về. 

Chiến có những nét giống mẹ: gan góc, đảm đang tháo vát. Nguyễn Thi có ý thức tô đậm nét kế thừa người mẹ nhân vật Chiến. Chiến là một tính cách đa dạng: vừa là một cô gái mới lớn, tính khi còn rất trẻ con, vừa là người chị biết nhường em,.,biết lo toan, đảm đang, tháo vát. So với người mẹ, Chiến không chỉ khác ở cái vẻ trẻ trung thích làm duyên làm dáng. Vận hội mới của cách mạng đã tạo điều kiện cho Chiến được trực tiếp cầm súng đánh giặc để trả thù nhà, thực hiện lới thề như dao chém đá của mình: “Đã lăm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất” .

Trong tác phẩm, Việt là nhân vật xuất hiện nhiều lần nhất. Việt đã hiện lên cụ thể và sinh động trước mắt ta, vừa là cậu con trai mới lớn, vừa là một chiến sĩ gan góc, dũng cảm, kiên cường. Việt có cái nét riêng dễ mến của một cậu con trai lộc ngộc vô tư, tính anh còn rất trẻ con, rất ngây thơ, hiếu động.

Nếu Chiến luôn biết nhường nhịn em, thì trái lại, Việt lại hay tranh giành phần hơn với chị. Việt rất thích đi câu ca, bắn chim, và đến khi đi bộ đội vẫn còn đem theo cả cái súng cao su ở trong túi. Mọi công việc trong nhà, Việt đều phó thác cho chị. Đêm trước ngày lên đường, Chiến lo toan thu xếp chu đáo việc nhà, từ Út em, nhà cửa, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má, bàn bạc với em một cách trang nghiêm còn Việt thì vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, vừa nghe vừa chụp một con đom đóm úp trong lòng tay rồi ngủ quên lúc nào không biết. Cách thương chị của Việt cũng rất trẻ con, “giấu chị như giấu của riêng” vì sợ mất chị trước những lới tán tỉnh đùa tếu của anh em. Việt bị thương nằm lại ở chiến trường, đến khi gặp được đồng đội thì cũng giống hệt như thằng Út em ở nhà “khóc đó rồi cười đó”,... 

Tuy vẫn còn có vẻ hồn nhiên, vô tư nhưng Việt cũng thật đường hoàng, chững chạc trong tư thế của người chiến sĩ trẻ dũng cảm, kiên cường. Dòng máu nóng chảy trong người Việt là dòng máu gia truyền của những con người gan góc, không bao giờ biết sợ trước sự bạo tàn. Cho nên, còn bé tí mà Việt đã dám xông thẳng vào thằng giặc đã giết hại cha mình. Việt đã nằng nặc đôi đi tòng quân để trả thù cho ba má. Khi xông trận, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm, đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của địch. Và đến khi bị trọng thương, một mình nằm giữa chiến trường, hai mắt không còn nhìn thấy gì, toàn thân đau điếng và rỏ máu, người thì khô khốc đi vì đói khát, Việt vẫn ớ trong tư thế chờ tiêu diệt giặc: “Tao sẽ chờ mày. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày.”. Có thể nói, hành động giết giặc để trà thù nhà, đền nợ nước đã trở thành một trong những thước đo quan trọng nhất về phẩm cách con người của nhân vật Nguyễn Thi.

Đọc Những bứa con trong gia đình, không ai có thể quên đoạn văn rất cảm động tả cảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm: “Chị Chiến ra đứng giữa sân… rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mời thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Trong cái không khí vô cùng thiêng liêng ấy, con người ta bỗng thấy mình thành một người khác, trưởng thành và khôn lớn hơn. Một người hôn nhiên, vô tư như Việt, vào chính chính giờ khắc này mới thấy “thương chị lạ”, mới thấy rõ lòng mình và cảm thấy rất rõ mối thù thằng Mĩ như có hình, có khối, có trọng lượng cụ thể đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật cô đọng, dồn nén, chất chứa biết bao ý nghĩa, vừa là hành động cụ thể, vừa có yếu tố tâm linh, vừa nặng trĩu căm thù, vừa chan chứa yêu thương,...

III . Kết bài 

Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến đời chị em Chiến, Việt. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Truyện có bút pháp nghệ thuật già dặn, điêu luyện được thể hiện qua giọng trần thuật, trần thuật qua hồi tưởng của nhân vật, miêu tả tâm lí và tính cách sắc sảo, ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ.

(Sưu tầm)