Jul 6, 2012

Những bài thơ lẻ của Hoàng Cầm


Những bài thơ lẻ 
Hoàng Cầm


Nếu anh còn trẻ
Nếu anh còn trẻ như năm ấy
Quyết đón em về sống với anh,
Những khoảng chiều buồn phơ phất lại
Anh đàn em hát níu xuân xanh
Nhưng thuyền em buộc sai duyên kiếp
Anh lụy đời quên bến khói sương
Năm tháng năm dây chùng phím nguyệt
Bao giờ em hết nợ Tầm Dương
Ngày mai nếu có đêm trăng cũ
Anh trở về thăm bến trúc xa
Thì em còn đấy hay đâu mất
Cuối xóm buồn teo một tiếng gà
1941

Một mình
Dường như cánh gió không bay
Lời ca không hát rượu đầy không men
Dường như nhớ, lại không quen
Một mình tôi... một mình em... lạ thường...
Dường như trăng chếch bên giường
Tiếng gà giã biệt đêm trường lặng im
1942

Lại gặp

Ta đã về đây lại gặp mình
Cõi đời nghiêng ngửa giấc u minh
Níu tay cười xuống hoàng hôn cũ
Vớt mắt em về bến hóa sinh.
1942

Sám hối

Ôi một phút vũng bùn đen ghê gớm
Ngập lòng tôi quằn quại lửa hờn đau
Người sáng trong đêm mù ghê tởm
Khi tỉnh ra sương đã trắng trên đầu
Như ngọn gió điên rồ trên đất lạ
Cuốn phăng đi ngàn hoa lá thiên đường
Tôi đã mất hương thơm, tôi xé nát
Cả lòng mình
Trời đất đã thê lương
Triền sóng bể gầm lên màu tội lỗi
Khắp lâm tuyền con ác thú vằn đen
Làm vẩn đục cả mặt trời sáng chói
Vầng thái dương là cả tấm lòng em !
Tấm lòng em cao xa và quảng đại
Còn rọi ngang trên một mảnh hồn thơ
Tôi mở mắt : Ôi ! mây hồng thắm lại
Nắng huy hoàng gột sạch vết bùn nhơ
Bàn tay ngọc lặng xoa vừng trán lạnh
Tôi như người chết đuối được hồi sinh
Nửa đêm nay, muôn vì sao lấp lánh
Là mắt em, hay thần mộng anh linh
Nằm yên trong mắt ân tình,
Hồn lên khép nép thiên đình đó chăng
Nhờ em ngọc lại như băng
Nước sâu gạn đục, ánh giăng nhiệm màu.
5 tháng 3 Đinh Hợi (1947)

Đêm liên hoan

Đối thoại thơ của những anh vệ quốc quân
Trong ngày hội liên hoan của nhiều đơn vị bộ đội Việt Bắc
Anh ơi !
Đêm nay đầu người như ngọn sóng
Đang trào lên sức sống muôn đời
Niềm vui bát ngát trăng soi
Mảnh trăng úa máu chân trời Việt Nam
Đêm liên hoan ! Kìa trông : đêm liên hoan
Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc đoàn
Kia núi dài Trung Nam
Đây rừng sâu Việt Bắc
Cỏ cây cũng căm hờn
Đang vùng lên đuổi giặc
Tôi với anh trong ngày hội lên đường
Bắt tay mừng trên giải đất đau thương
Anh từ phương nào lại ?
Tôi từ Đất dấy lên
Anh có nghe tiếng sóng gầm Đông Hải
đang hờn ghen cùng thác máu triền miên ?
Thác máu không tên
Dội tràn bốn nẻo
Cỏ không gầy, cây không già, hoa không héo
Nghìn thu đất nước vững bền
Anh từ quê nào đó ?
Cũng từ Đất dấy lên
Chúng ta chung một mẹ hiền
Lúa thơm bàu sữa, bông mềm áo thu
Chúng ta chung một mối thù
Gươm tung uất hận, đạn vù đắng cay
Anh đi đâu tới đó ?
Tôi đi giết giặc Tây
Hôm nay gặp bạn ta cùng hẹn
Lấy máu thù kia rửa nhục này.
Gia đình anh ở đâu ?
Mẹ hiền tôi đ• khuất
Nhưng trước khi nhắm mắt
Mẹ mừng cho đàn sau
Máu tôi mai sẽ chảy
Trôi phăng kiếp ngựa trâu
Xương tôi tôi bắc nhịp cầu
Cho đàn em bước lên lầu Tự do
Trong tiểu đội của anh
Những ai còn, ai mất ?
Không ! Không ai còn, ai mất
Ai cũng chết mà thôi
Người sau kẻ trước lao vào giặc
Giữ vững nghìn thu một giống nòi
Dù ta thịt nát xương phơi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam.
Đêm liên hoan, trời đầy sao vinh quang
Đầu người nhấp nhô sóng bể ngang tàng
Muốn nói m•i cùng anh thương mến
Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc đoàn.
Anh bạn mến thương ơi
Nắm chặt lấy tay tôi
Kìa sao anh lại khóc ?
Tôi quá mừng đó thôi !
Đêm liên hoan, lần thứ nhất trên đời
Ta thương nhau, tưng bừng nhảy múa
Giặc Pháp kia ! Không bao giờ nữa !
Ta đếm từng giờ
Ta chờ từng phút
Ta đợi từng giây
Lửa hờn ngùn ngụt
Thiêu tan chúng mày
Anh đi hỏi gió
Anh về hỏi cây
Anh hỏi biển rộng
Anh hỏi sông đầy
Anh hỏi ngô non
Anh hỏi lúa bé
Anh đi hỏi già
Về nhà hỏi trẻ
Rằng : ta là Vệ Quốc đoàn
Đêm nay say hội liên hoan
Ngày mai gươm súng diệt tan quân thù
Nghĩa tình Cách mạng mùa thu
Hội liên hoan sẽ tưng bừng hiển hiện
Giữa đoàn quân bách chiến
Trở về thủ đô
Như nước vỡ bờ
Từ trăng mọc Cà Mau
Đến hoàng hôn xứ Lạng
Từ nắng sớm Sơn La
Đến mưa chiều Vạn Tượng
Muôn đạo hùng binh
Phấp phới cờ bay
Đoàn quân bách chiến
Đi suốt đêm ngày
Mẹ ơi ! Con đã về đây
Cha già bạc tóc vẫy tay đón mừng...
Anh ơi ! anh tỉnh lại !
Nước mắt tôi rưng rưng
Hình như tôi đã mơ màng...
Phải rồi ! Anh ! Vệ Quốc đoàn
Đêm nay vào hội liên hoan
Ngày mai nổ súng diệt tan quân thù
Mai này... thu... lại tới thu
Liên hoan bừng nở bốn mùa non sông(*)
Tháng 10 -1947

Khóc anh Lê Lương
........
Hỡi người cảm tử Lê Lương**
Nà U sầm tối còn vương máu hồng
“Anh ơi tỉnh lại, em đây mà
Em khóc vì lòng em xót xa
“Đây khẩu liên thanh em cướp được”
“Anh ơi tỉnh lại ngó nhìn qua”
Lê Lương mở mắt nhìn không chớp
Khẩu súng quân thù máu đỏ vương
Anh nói : "Việt Nam... Hồ Chủ Tịch"
Rồi anh tắt thở giữa đêm sương
Hỡi người tử sĩ Lê Lương
Nà U phảng phất trầm hương nghìn đời
Có một chiều kia dưới mái gianh
Cụ Hồ bỗng nhận được tin anh
"Lê Lương đã chết"... hai hàng lệ
Ướt má Cha già, thấm áo xanh
Rồi một chiều xa khắp bốn phương
Tin buồn đưa đến lạnh như sương
Những người chiến đấu cho nòi giống
Bỗng khóc òa lên nỗi tiếc thương
Anh Lê Lương, anh hỡi Lê Lương
Núi sông nghi ngút trầm hương ngàn đời
Anh Lê Lương !
Anh gửi hồn thiêng đi bốn phương
Chia ra ngàn vạn mảnh phi thường
Nhập vào muôn vạn hồn trai trẻ
Để bốc lên cùng với máu xương
Đất Việt từ nay anh khuất bóng
Nhưng còn muôn vạn bóng Lê Lương
Những chàng trai trẻ là anh đó
Rầm rập tung cao bụi chiến trường
Rồi cũng như anh quyết tiến lên
Tơi bời thịt rụng máu triền miên
Lửa hờn dân tộc thiêu hồn giặc
Rừng thẳm quay cuồng núi đảo điên
Rồi cũng như anh máu chảy ròng
Chết vì Tổ quốc nhẹ như không
Chúng em chết hết mà không chết
Vì sống muôn đời với núi sông.
Tháng 11-1947

Tiếng hát sông lô

Sông Lô chảy xuống sông Hồng
Sông Hồng trôi đến biển Đông xa vời
Biển Đông cuộn sóng ngang trời
Nhắc đi bốn bể những lời sông Lô
Chị Hồng ơi
Em là em bé sông Lô
Em đi theo chị bến bờ là đâu
Chiều nay thương mẹ em sầu
Cho em kể lể vài câu tâm tình
Từ trên nguồn thơ dại
Em chải tóc rừng xanh
Em quấn khăn lá biếc
Áo em sớm thì xanh
Chiều về đỏ như huyết
Em muốn cảnh bình yên
Em vun hoa tưới cỏ
Em đẩy đưa con thuyền
Em trồng ngô cấy lúa
Em phụng dưỡng mẹ hiền
Biết bao nhiêu nỗi ưu phiền
Làm đau lòng mẹ em quên sao đành
Một chiều rừng núi đương xanh
Hương ngát mùa thu êm ái
Bỗng ào ào cơn gió hôi tanh
Một lũ tham tàn tiến lại
Em rùng mình, lòng em tê tái
Sắc trời mây cũng ủ dột tiêu điều
Nói ra đau đớn bao nhiêu
Một tay ác quỷ trăm chiều xót xa
Nó tiến lên đốt phá cửa nhà
Trong lửa cháy máu mẹ hiền tím ngắt
Lúa đương tơ mầm non xanh tan nát
Ôi tơ vàng cỏ biếc héo đau thương
Mẹ gầy mẹ khóc đêm trường
Riêng em thổn thức trên nguồn đìu hiu
Nhưng chị ơi !
Có những chàng trai trẻ
Những người con mến yêu
Cùng một lòng thương mẹ
Đã vùng lên như bão táp một chiều
Sấm sét hai bờ sông
Chị Hồng nghe thấy không ?
Máu thù loang cát trắng
Máu thù hoen nước trong
Áo em ai nhuộm nên hồng
Em xin gửi chị một dòng máu tươi
Bồng bềnh kia những xác người
Sông Lô gửi chị
Chị cười đón lấy lòng em
Lòng em khao khát rửa thù chung
Khối sắt đào sâu mộ thủy cung
Khối sắt tỏa đồng trong chớp mắt
Chìm rơi lấp lánh nắng Đoan Hùng
Bãi cát Bình Ca dưới ánh trăng
Ai mò súng đạn bảo nhau rằng
Chúng ta vớt cả hồn quân giặc
Lướt thướt đêm mờ tóc giá băng
Em đã no say những xác thù
Chiến công phơi áo đỏ nghìn thu
Em về với chị vui ca hát
Mẹ cũng tươi cười cất tiếng ru
à... ơi... ! Em là em bé sông Lô
Sóng xanh đuổi xác quân thù về đâu
Chị ơi qua mấy chân cầu
Máu loang bọt sóng đục ngầu biển Đông
Sông Lô chảy xuống sông Hồng
Sông Hồng trôi đến biển Đông xa vời
Biển Đông cuộn sóng ngang trời
Nhắc đi bốn bể những lời sông Lô
Em Lô Giang hãy đợi chờ
Chiều nay có một chuyến đò về xuôi
Chèo khua máu giặc đã phai
Nhưng hồn giặc vẫn lạc loài những đâu
Đám tang quân cướp u sầu
Chị đưa ma tới chân cầu Long Biên
Từ Đoan Hùng sâu thẳm
Đến Bình Ca xanh xanh
Tuyên Quang cờ lại thắm
Ngã ba Gầm mông mênh
Bao nhiêu thôn xóm quên tàn phá
Gạch ngói bừng thơm khói thị thành
Từ núi đồi cao thấp
Đến bờ đê thẳng băng
Dân ta còn tới tấp
Đi về họp chợ bước tung tăng
Quanh co đường cỏ bò đây đó
Lũ trẻ nô đùa dưới ánh trăng
Sông Lô mến thương ơi !
Em truyền đi tiếng hát
Tiếng đò đưa xa xôi
Em về đây bát ngát
Những chiều hè gió mát
Đò đưa bay về xuôi
Hát(1):
Tình tang... Sông Lô bốc khói lên trời
Rừng xanh khanh khách trận cười dòn tan
Cười rằng một lũ gian tham
Vía bay mây tía hồn tan suối vàng
Tình tang... ơi ới... tình tang
Có nghe tiếng hát cô nàng se tơ
Có ai nghe tiếng hát ngọn sông Lô
Mà không nhớ thương người chiến sĩ
Cầm súng đứng trơ trơ
Giữa núi rừng hùng vĩ
Ngày ấy sông Lô
Reo hò gió mưa
Bên bờ cỏ non
Nắng chiều xuân như rung rinh đùa dỡn
Như điệu hát dòn ở cạnh sườn non
Có ai nghe tiếng hát ngọn sông Lô
Mà không nhớ thương đàn trẻ nhỏ
Ngồi soi bóng sông Lô
Lừng tiếng sóng sóng đưa về xuôi
Nhớ sông lại nhớ đến người
Sông reo có nhớ tiếng cười hay không
Sông Lô chảy xuống sông Hồng
Sông Hồng trôi đến biển Đông xa vời
Biển Đông cuộn sóng ngang trời
Nhắc đi bốn bể những lời sông Lô
Việt Bắc, 12-1947

Bên kia sông Đuống

Em ơi ! buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
Mộng bình yên
Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những cô nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già bay tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu... Về đâu...
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu... về đâu...
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu...
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
Con là ai - Con ở đâu về
Hé một cánh liếp
Con vào đây bốn mảng tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao lóe giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ chiều xưa
Căm căm gió rét mịt mờ mưa bay
“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu...”
Em ơi ! Đừng hát nữa ! Lòng anh đau
Mẹ ơi ! Đừng khóc nữa ! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Việt Bắc, tháng 4- 1948

Tâm sự đêm giao thừa

Đêm nay hết một năm
Đứng gác đến giao thừa
Quê hương chừng rét lắm
Lất phất mấy hàng mưa
Tôi có người vợ nghèo
Đời vất vả gieo neo
Từ khi chồng ra lính
Nhà gianh bóng hắt heo
Lần hồi rau cháo dăm phiên chợ
Tóc rối thân gầy quán vắng teo
Đêm ba mươi gió thổi
Tôi lại nhớ con tôi
Vợ đói con cũng đói
Khóc lả lặng từng hồi
Mẹ thì nước mắt nhiều hơn sữa
Ngực lép con nhay đã rã rời
Một ngày bốn năm bữa
Con khóc chừng đứt hơi
Sục tìm vú mẹ không còn sữa
Há miệng uống no dòng lệ rơi.
Đêm nay xuân sắp tới
Quê nhà ai héo hon
Vợ tản cư đâu đó
Mừng tuổi gì cho con
Xuân về với núi sông
Quê nhà ai ngóng trông
Thương vợ con nghèo đói
Mừng tuổi bằng chiến công

Đồn giặc bên kia sông
Đêm nay tôi phải diệt
Nó chia vợ rẽ chồng
Nó làm nên đói rét
Sáng mai mùng một tết
Lửa còn bốc đồn cao
Tôi đạp đầu giặc Pháp
Cắm cờ trên chiến hào
Lửa bốc con tôi nhìn cũng rõ
Cờ bay vợ cũng thấu tình thương
Dân sự truyền đi tin thắng trận
Một chiều nao nức chợ quê hương
Vợ tôi ngồi trong quán
Mưa lùa tóc rối tung
Bỗng có người đến bảo
Chồng chị lập chiến công !
Mặt vợ nghèo lấp lánh
Da xanh ửng sắc hồng
Sẽ vuốt lại mái tóc
Ôm chặt con trong lòng
Ru rằng : xuân tỏa non sông
Cha con vừa lập chiến công lẫy lừng
Xa xôi cha gửi tin mừng
Lộc khô cành héo xem chừng lại tươi
Như một cơn mưa sớm
Ươm mầm non sắp thui
Sữa căng lên đầu vú
Máu chảy mạnh trong người
Vợ tôi cho con bú
Con uống mạnh từng hơi
Đứa bé no rồi ngủ
Xuân ấm nồng trên môi
Sương khuya đằm quán lạnh
Nhớ người lập chiến công
Vợ tôi đắp vạt áo
Thân con đỡ lạnh lùng
Đêm giao thừa đứng gác
Rền rĩ tiếng côn trùng
Tưởng chừng nghe vợ hát
Lời ru êm như bông
“À ơi... Cha con ăn tết lập công
Cho sữa mẹ chảy một dòng nghìn thu
Cha đem cái chết quân thù
Làm nên sức sống bây giờ của con...”
Tết 1948

Giữ lấy tuổi trẻ

Thư của người em gái nông thôn hậu phương
Gửi người anh ngoài tiền tuyến tố cáo tội ác
Của giặc Pháp bắt phụ nữ làm lính
Em viết thư cho anh
Trong làng còn lửa đỏ
Tay viết, lòng càng nhớ
Thày, giặc giết năm kia
Tiếng súng bờ sông khuya
Đến nay còn xé ruột
Thù, chưa nguôi chuyện trước
Giặc sắp chết càng hung
Vừa qua, nó đi lùng
Bắt chị em làm lính
Anh có nhớ chị Tính
Tuổi đương độ trăng tròn
Nó lôi tuột lên đồn
Tiêm thuốc cho mất đẻ
Người hiền lành, đẹp khoẻ
Nay ngơ ngác ủ ê
Nhà giam khóa bốn bề
Suốt đêm chị gào thét
Anh có nhớ chị Nguyệt
Hai má lúm đồng tiền
Sắp sửa đi ở riêng
Giặc bắt đem lên quận
Nó hút máu năm bận
Cứu mấy thằng võ quan
Chị lê lết về làng
Mặt xanh như tàu lá
Hiện giờ đang ốm lả
trong tay bà mẹ lòa
Em đến thăm chiều qua
Thấy khó lòng sống được.

Anh có nhớ chị Tước
Thường đánh khăng ngoài đồng
Năm ngoái mới lấy chồng
Nay đến kỳ ở cữ
Giặc bắt chị giữa chợ
Tiêm thuốc cho trụy thai
Rồi đem làm thú vui
cho bọn quỷ khốn nạn
Bắt chị cắt tóc ngắn
Mặc quần áo “khinh quân”
Lôi chị ra giữa sân
Bắt tập bò, tập bắn
Cả mười mấy chị em
Giặc đọa đầy như thế
Cho tuyệt đường sinh đẻ
Nhìn ống thuốc dã man
Nghĩ đến nước đến làng
Đến giống nòi chồng vợ
Hờn căm nghẹn ứ cổ
Nhổ vào mặt kẻ thù
Các chị đều hét to
Tao không đi lính ngụy !
Em thương xót các chị
Như dân làng thương em
Giặc dã man đê hèn
Em kể sao cho hết
Âm mưu giặc rãy chết
Phá xương thịt chúng ta
Diệt con cháu chúng ta
Từ khi còn trong trứng
Vầng đông trời đã hửng
Em hai mươi tuổi tròn
Như lúa lên đòng non
Như hoa cau trước ngõ
Máu em thịt anh đó,
Tóc em xương anh đây
Là của mẹ của thày
Là của làng của nước
Em đặt chông ngõ trước
Em gài mìn lối sau
Với chị em hẹn nhau
Giữ vẹn tròn tuổi trẻ
Mai sau đàn cháu bé
Nhất định sẽ ra đời
Chúng nó sẽ reo cười
khắp quê hương xanh tốt
Nửa đêm em đứng gác
Đồng xa gió giạt giào
Trời khuya lóng lánh sao
Em thấy anh bên cạnh
Cầm súng thép óng ánh
Bóng vươn dài lũy tre
Em với anh hẹn thề
Giữ tuổi xanh anh nhé
Em thấy bóng các chị
Dù bị giặc dày vò
Đôi mắt còn mở to
Nhìn trời sao sáng mãi
Tuổi trẻ quyết giằng lại
Chặt tay lũ súc sinh
Trong ấy bùng đấu tranh
Ngoài này súng lên đạn
Thư em viết không cạn
Lòng căm giận tràn đầy
Anh xuất trận đêm nay
Bao quân thù gục xuống (*)
Viết trong chiến dịch
Điện Biên Phủ tháng 3- 1954

Những đoạn thơ tình


Bình yên

Anh ở ngoài mặt trận
Sừng sững đồi cao
Mắt rọi nền trời đặc khói
Máy bay giặc vo vo
Đem cái chết khổng lồ
Úp xuống đầu anh đang bốc lửa
Em ơi đừng sợ
Anh thu cái chết tới đây
Cho em sống trọn một ngày
Trời của em xanh màu bình yên
Chiều nay em nhé đừng quên
Ra ngõ ngoài hong tóc
Trời để em bay lên
Với tiếng em chợt khóc
Yêu em anh sống như mặt giời
Dù xác anh tàn rơi
Mặt giời còn chiếu mãi
Trong lòng người thứ hai
Sẽ yêu em ngày mai
1950

Hứa

Anh hứa rất nhiều
Anh cho em cả trời mây trái đất
Bệnh em cần một giọt nước mắt
Anh vội vàng đi hái thuốc tiên
Lên rừng xuống biển
Mặt lo toan nắng võ ưu phiền
Bơ phờ tóc héo
Vì yêu em
Hay vì chưa biết em
1951

Thất vọng

Thôi anh đừng viết thư
Mỗi dòng một thêm tội
Thày mẹ em mất rồi
Em có thày mẹ mới
Đêm nay sao lặn góc trời
Bây giờ em được mồ côi
1952

Tiếng cười

Gửi anh bạn nhà văn trẻ sớm già
Tình yêu là cái chi
Mà lắm thày mổ sẻ
Dao cắt đôi lòng người
Ruột thày không sứt mẻ
Thày nhìn người rất sáng
óc thày mù như đêm
Làm xong việc phúc đức
Thày mò sang với em
Rúc đầu vào nách vợ
Hút hít như chó con
Sáng dậy, giọng vang ròn
Quanh bốn tường rêu mốc
Thày ban bố đạo đức
Như bóng cậu về già
Điệu chầu văn củi mục
Tửng tưng thầy ê a
Mắt thày nhắm nghiền lại
Thày đọc kinh giáo điều
Có đôi người mới yêu
Chót hôn nhau thành tiếng
Thày ngỡ bom rung chuyển
Chạy rống kêu cả làng
Dao ngọc với gươm vàng
Chém nát nhừ trận gió
Mội chuỗi cười đâu đó
Lanh lảnh trên từng cao
1953

Mới

Đôi vợ chồng mới cưới đêm qua
Sớm dậy giặc bổ vây
Đạn réo đầu nhà
Đôi lứa xuống hầm bí mật
Tiếng cuốc bổ miệng hầm bần bật
Như quỷ nhập tràng
Nậy nắp áo quan
Dựng người còn sống
Một mũi kim luồn nhanh qua xương sống
Yêu nhau phải chết cùng nhau
Tay rờ chuôi lựu đạn
Người vợ lắc đầu
Yêu nhau phải sống
Hầm bật nắp, vợ lao lên
Một cơn gió lốc
Lựu đạn nổ, giặc vài tên lăn lóc
Còn, xô nhau theo mớ tóc đen
Một tràng tiểu liên
Im lặng
Nép xó hầm người chồng nghe vẳng
Lời đầu tiên rủ rỉ đêm qua
Mấy năm sau
Người chồng đi lấy vợ
Yêu nhau thực thà
Chợt một hôm nghe thoáng lời ca
Ngày cũ
Quay nhìn vợ trẻ hiền như cánh hoa
Anh nói như người say
"Một suối máu nở thành em hôm nay
Yêu em sao cho vừa
Với tình cao cả ngày xưa ?"
Anh càng nói càng ngả đầu lơ mơ
Trên vai mềm vợ mới
Người sống nói nhiều
Người chết không nói nữa
Từ nơi vô cùng
Chỉ gật đầu cười nụ
Nghe tiếng đời thao thao lý sự
Trên nắm xương gửi lại đã tan dần
1953

Cưới

Hôm nay làm lễ cưới
Mong mãi chưa đến chiều
Bài diễn văn mỹ miều
Mãi chưa sang đoạn cuối

Em đã van anh đừng đón đưa
Mặt bạn hôm nay nở trái mùa
Diễn văn cót két chân giường mới
Gậm hết tình yêu, hết ước mơ.
1955

Sáng tối

Sao phải rủ nhau ngồi trong bóng tối
Ngoài trời nắng gió xôn xao
Chưa ai nhìn ta
Như hai đóa hoa
Rung rinh trước gió
Đời vẫn tráo trâng
Nghiêng nghiêng ngó ngó
Ta chưa có chỗ
Trong trái tim người
Ta phải lặng ngồi
Trong bóng tối mùa xuân
Ngồi đó không yên
Có kẻ đuổi lên
Ghế đá
Lạnh lưng em quá, mình ơi !
1956

Em bé lên sáu tuổi
Mỗi chính sách của Đảng
Là một tia nắng hồng
Nắng vương mây sám lạnh
Cỏ hoa còn ngóng trông
Ước có nhiều trận gió
Thổi sạch quang vòm trời
Cho tia nắng nhảy múa
Vui hát thực trên đời
I
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn
Bố : cường hào nợ máu
Đã trả trước nông dân
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào trong Nam
Từ khi lọt lòng mẹ
Ăn sữa, ngủ giường êm
áo hoa bọc áo mền
Nào biết mình sung sướng
Ngọn sóng đang trào lên
Ai đoái trông bèo bọt
Nhưng người với con người
Vẫn sẵn lòng thương xót

Có cụ già đói khổ
Lập cập đi mò cua
Nghĩ đến loài địa chủ
Tim phồng căng oán thù
Cụ đã nuôi đứa bé
Trơn lông và đỏ da
Sáu năm, phường độc ác
Lột trơ xương thân già
Bố mẹ nó không còn
Đứa trẻ nay gày còm
Càng thương tình côi cút
Cụ thường cho miếng cơm
Chân tay như cái que
Bụng phình lại ngẳng cổ
Mắt tròn đỏ hoe hoe
Mở nhìn đời bỡ ngỡ
Lạy bà xin bát cháo-"
Cháu miếng cơm thày ơi !"
II
Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài

Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ
Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa
Chị bần nông cốt cán
Ứa nước mắt, quay đi :
"Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy"
Chị đội bỗng lùi lại
Nhìn đứa bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch
Chỉ thấy một con người
Em bé đã ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ
Chị nghĩ : sau lấy chồng
Sinh con hồng bụ sữa
III
Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo
Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt léo
Do con mắt bé tẻo
Chẳng nhìn xa chân trời
Do bộ óc chây lười
Chỉ một màu sắt rỉ
Đã lâu nằm ngủ kỹ
Trên trang sách im lìm
Do mấy con - người - máy
Đầy gân, thiếu trái tim
Nào "liên quan phản động"
"Mất cảnh giác lập trường"
Trời nhập nhoạng tối sáng
Chân lý mù như sương
Mấy đêm khóc ròng rã
Ngọn đèn soi tù mù
Lòng vặn lòng câu hỏi :
"Sao thương con kẻ thù ?
Giá ghét được đứa bé
Lòng thảnh thơi bao nhiêu
Nhưng bụng nó lúc đói
Giống bụng ta khi nghèo"
Em bé đến ngoài cửa
Thành quen xin miếng cơm
Nhịn cho em một nửa
Chị đưa qua khe tường

Ngồi viết lên từng chữ
Sáng tình yêu con người
Ngoài kia sông núi mở
Thao thao đến chân trời
IV
Có đồng chí cấp trên
Lật từng trang kiểm thảo
Nước mắt mấy giọt liền
Rơi trên tờ báo cáo :
"Có bầu trời nhân đạo
Còn vương vất bóng đêm
Đồng chí đã thắp đèn
Dòng mực vắt như sữa
Nhức căng hai đầu vú
Nuôi ngày mai lớn lên"
Em bé lên sáu tuổi
Được chăm nuôi lớn dần
Đã tung tăng cặp sách
Cùng trẻ em nông dân
Bướm bay quanh mắt sáng
Cỏ xanh rờn chân em
Cỏ đang lấp bùn đen
Của nghìn năm tội ác

Chị đội thăm trường học
Cờ lên, em đứng chào
Mắt sáng như hôm nào
Được miếng cơm của chị.
Tháng Sáu, 1995

In dấu chân

Truyện người tù vượt ngục Sơn La và cô lái đò ở một bến sông
miền trung du, năm Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930)


Người tù vượt ngục:
Sông gió khuya, bờ lau run tiếng gà,
Tuần canh điếm xa nôn nao tù và
Một ngôi sao nhòa rung rinh chợt khóc
Rớt xuống lòng sông
Cô người đâu ta
Thuyền ai nằm im khóm tre xoã tóc
Có sang ngang đưa người về thôn xa

Cô lái đò:
Thuyền tôi nằm im. Tóc tôi bỏ xoã
Bến sông này quan đã cấm sang ngang.
Quan bảo loạn từ đâu về thôn dã.
Nghe, chân trời đen : trống vỗ ầm vang.

Người tù vượt ngục:
Đêm đáng sợ, sao cô còn đứng lặng
Áo rách tà phần phật mách tin ai
Tôi chợt nghe nước mắt rơi nằng nặng
Hay đá lăn từ núi nhọn xuống sông dài

Cô lái đò:
Sóng kêu to lấp tiếng người thét gọi
Chồng tôi đi, đoàn tù rạc Sơn La
Tôi đứng mãi đây. Phương trời nhức nhối
Răng chồng tôi răng rắc khóm tre già
Người có thấy bao giờ vuông vải đỏ
Sớm tinh mơ bay phất nóc lều tranh
Bay mãi đi cuối trời xa rực lửa
Cháy ngục tù, nuôi mãi tóc đang xanh
Người có thấy bao nhiêu tờ giấy mỏng
Gieo từng lời sắt đá tới quê tôi
Mực đã khô bao nhiêu dòng máu đọng
Vò nuốt đi, ngực lép đã căng rồi
Đôi vú căng soi người đi biệt xứ
Làm dây đu bền chắc dẻo tay chồng
Vút cao lên ! Đây là hai núi sữa
Ngậm đau nhiều, phun trắng muốt nghìn sông
Tôi đứng đây sắp chìm trong vũng cát
Thuyền chông chênh kẽo kẹt mọt nhai ròn
Giầu sang đi hóng mát-Người là ai ?
Hay đói nghèo đi bẻ trộm ngô non

Người tù vượt ngục:
Tôi, con đẻ của dân nghèo nước Việt
Cắt đứt dây thuôn lưỡi, lưỡi còn đau.
Tôi lại thấm dòng máu tươi Xô viết
Vô sản trồi lên lừng lững địa cầu
Vẫy cờ đỏ, bơi trong vừng trán rộng
nin, tay vịn nếp răn sâu-Của Lê
Như vịn chắc mái chèo khua biển động
Tìm tương lai lanh lánh hạt trân châu.
Dòng sông sữa đêm nay quan lấp bến.
Cô còn đau. Lau sậy nín hơi chờ
Giá có người tù Sơn La chợt đến
đòi sang ngang, thuyền có tỉnh cơn mơ

Cô lái đò:
Tù xa lắm, có về sao bến đẹp
Ngày được tha tóc trắng lại hơn bông
Vú sẽ cạn. Ngực tôi đành lép kẹp
Áo hở lườn, xương trắng lại hơn sông.
Người vượt ngục
Cô lại gần, nhờ ánh sao đằng trước
Nhìn mặt tôi lỗ chỗ vết dùi nung
Nhìn tay tôi xích lằn xương tím buốt
Rừng Sơn La chi chít tóc bòng bong

Tiếng trống đuổi từ núi cao xuống biển
Tù và xua dồn lưới khắp bờ đê
Nghìn nhánh sông đẩy thuyền quan cập bến
Lưới dăng đầy, không hở một cành tre
Tôi chẳng phải người chồng đu vú sữa
Tay đau nhừ không víu được đầu non
Về bên kia : xóm làng xưa thương nhớ
Mắt người em đen láy mở to tròn
Có mẹ già nghiến hàm răng sứt mẻ
Cắn rách tung nghìn mắt lưới bao vây
Chắp cánh rộng cho bàn tay nứt nẻ
Tôi thành chim, vĩnh biệt kiếp tù đày
Chim mỏ thép, cựa đồng bay bốn cõi
Mổ vỡ toang nghìn cửa ngục sắt dày
Ở nơi đâu con người còn chịu trói
Còn chịu quỳ, tôi đạp xích tung dây.
Người có thành chim ngất trời bay lượn
Sông mới thành sông sữa cô hằng mong
Lửa mới ngoạm nhà tù, và đất ruộng
Mới giồng đu, bổng tít cánh tay chồng.

Cô lái đò:
Chồng tôi đâu. Một trời sao lặng khóc
Tôi van người, cho được nắm bàn tay
Xoa vết sẹo, và lách vào rừng tóc
Nghe chồng tôi thở nhẹ một đêm nay

Thuyền đã tháo dây, mời người bước xuống
Trống làng bên đuổi gấp chiếc thuyền thoi
Tôi dướn mình trên mặt sông gió cuốn
Tiếng tù và chìm lịm dưới chèo bơi.
Kẻ đuổi bắt lênh nghênh trèo vai vợ
Dẫm mồ cha, xéo nát ngực đàn con
Đuổi bắt người, răng bập sâu tiền của
Đầu chó săn trùm mũ áo vàng son.
Nó phi ngựa, phóng xe, đè ngọn gió
đến bờ sông, cát bỏng sẽ chôn vùi
Sông nước này đâu phải là của nó
Mái chèo nhanh, - tiếng đập trái tim tôi

Người tù vượt ngục:
Đến đây rồi ! Đã thấy bờ cát trắng

Cô lái đò:
Chèo buông rồi. Tim ngừng đập phút giây
Ôi ! một chuyến đò ngang, lòng chở nặng
Những buồn đau tủi cực kẻ đi đày.

Người tù vượt ngục:
Gà gáy sáng. Chân trời chưa hửng nắng
Trống đồn canh thoi thóp bên kia sông
Thuyền nhẹ rồi ! Đã vơi cay đắng
Khuôn mặt bềnh bông, nước mắt ròng

Cô hãy khóc cho sông dềnh quá bãi
Chùi cát khô xoá sạch dấu chân này
Tôi sẽ đi đường cỏ xanh xanh m•i
Lúa bên đồng nghiêng đón bạn về đây

Cô lái đò:
Làm thế nào biết người đi đâu đó
Mà gửi theo đôi mắt đựng đêm sao
Mà gửi theo cả dòng sông trắng sữa
Nuôi chí người vùng vẫy rạng trời cao

Người tù vượt ngục:
Tôi sẽ đến nơi nào còn nước mắt
Còn tiếng kêu, còn máu nghẹn trong lòng
Tôi sẽ đến bên mồ người oan khuất
Những bộ xương xám ngoẹt ngóc đầu trông
Tôi sẽ đến nơi nào cây chẳng mọc
Đá ngậm hờn, sông trói khuỷu nằm yên
Tôi sẽ đến những ban thờ tang tóc
Xác chết khô còn cũi đóng gông chèn
Ngày sụp đổ những ngai vàng đất thó
Một lá cờ nhỏ bé vụt bay lên
Một cánh chim liệng khắp trời khói lửa
Trùm núi sông màu hạnh phúc lâu bền
Tù Sơn La tù Côn Lôn Lao Bảo
Cũng như tù trong góc ruộng cỏn con
Tù trang sách, chữ đen ngòm vênh váo
Cũng như tù óc lụi trái tim mòn
Tù phố hẹp tù dòng sông nước cạn
Tù hầm đen tù gác tía điểm tô
Sẽ phá hết ! - Trời tự do vô hạn
Tôi khát thèm hơn gái đẹp xuân tơ
Là sứ giả của tự do vô hạn
Tôi phá tan u uất nặng lòng người
Dù sợi tóc còn cứa vào nhân phẩm
Tôi còn hét to, dù khản tiếng tàn hơi

Cô lái đò:
Tôi sẽ khóc cho sông dềnh quá bãi
Chùi cát khô xoá sạch vết chân người
Bước chân tự do vang lừng bước mãi
Trong lòng tôi thình thịch trống liên hồi.
*
* *
Người tù vượt ngục đi rồi
Dấu chân trên cát sóng chùi không tan
Bình minh cát rực tia vàng
Dấu chân tăm tắp lấp ngàn cỏ xa
Cô lái nhìn dấu chân trên cát nõn
Bàng hoàng nghe đau nhức bước chân chồng
Cô rón rén đặt bàn chân vừa gọn
Lồng bước đi trùng điệp rẻo bờ sông

Không thụ thai như người trong chuyện cũ
Cũng nghe mình rạo rực máu trào sôi
In dấu chân đã bước vào gai lửa
Cô cắn răng tay bám chắc chân trời.
Ngoảnh nhìn lại dòng sông quằn máu đỏ
Chớp loè mây đen nghịt thốc theo sau
Khuôn mặt bừng lên tóc ào ào quất gió
Mắt đọng trời xanh. Sấm động trên đầu...
Tháng 8 - 1957

Nhân câu chuyện một tuổi trẻ
anh hùng chống Mỹ


(Ý chí và tinh thần, cuộc đời và cái chết của
Nguyễn Văn Trỗi theo như thông tin ban đầu
đã gợi cảm cho tác giả viết bài thơ này)
1
Khi đàn cò thong dong
Vẫy cánh mây đông hồng
Gọi nắng mùa tươi trong
Trải trên đồng xuân mới
Có tay Anh vẫy gọi
Ngân xa lời Anh nói…

Vâng, đây là quê hương
Nhìn đi ! Anh yêu thương
Trước khi Anh lên đường
Ngấn vàng trang sử Nước…
2
Lưỡi mai khi lên đường
Để lại dòng kênh lớn
Rồi dòng kênh ra đi
Để lại mùa thu cốm
Khói trắng khi lên đường
Để lại suối thép loáng
Rồi suối thép ra đi
Để lại nhà máy sáng
Viên đạn khi lên đường
Để lại đống xác giặc
Rồi cả nước ra đi
Để một nhà Nam Bắc
Hôm ấy khi lên đường
Anh để lại Đôi Mắt
3
Vồng đông xua cơn mưa
Nắng đông xua sương mù
Sóng đông xua cướp bể
Phương Đông xua phỉnh phờ
á đông xua giặc Mỹ
Đêm đông thương vợ chờ
Trước mặt toàn ma quỉ
Tay gầy Anh xua đi
áo dài đen khô lỳ
Con quạ đen thập ác
4
Người cày muôn xứ đồng
Áp ngực Anh bên lòng
Đi giành bốn cao điểm…
Điểm cao trang sách hồng
Máu gọi mùa quay vòng
Sữa đầy đong vú mẹ
Đất tròn tuổi anh hùng
Anh đứng là lưỡi cày
Anh nằm là dòng mương
Anh ngồi là cót thóc
Anh đi là con đường
Anh nhìn là nòng súng
Anh nói là lửa bùng :
Tôi ! Tôi yêu Đất Nước
Giành cao điểm cuối cùng
Kìa Anh đi phía trước
5
Phía trước : tiếng còi tầm
Chào Anh người bạn thợ
Cầu - dao - Anh cho lửa
Có dòng điện ươm tơ
Đèn soi tằm ăn rỗi
Có dòng điện làm mùa
Đèn bắt sâu đêm tối
Có dòng điện làm mẹ
Đèn canh giấc thiếu nhi
Có dòng điện trường kỳ
Đèn soi đường kháng chiến
Cả nước nhớ tên Anh
Trước tiên : người thợ điện
6
Khi phù sa Cửu Long
Cuồn cuộn xanh trăng mọc
-Rê-nôc(1)-Đôi bờ Ô
Phù sa hồng rạng đông
Bài thơ trăng bay xa
Anh đến Ca-ra-cát(2)
Dẫn trăng về quê ta
Từ Vênêzuêla
Vầng - trăng - Anh xuất hiện
Trận thắng dài vượt biển
Về sân bay Biên Hoà
Sài Gòn – Ca- ra -cát
Ngày muộn kề đêm thâu
Thắp đèn qua bão táp
Cùng đi quanh địa cầu
7
Bào thai chín tháng cựa
Cầu chín nhịp tìm đôi
Chín năm ròng nước sôi
Chín khúc rồng cuộn lửa
Chín mùa rơm trải ổ
Nhà chín gian lá gồi
Xây chín kho thóc chật
Chống chín lần bão giật
Núi chín đỉnh đội trời.
Chín phút trước mũi súng
Chín phút Anh yêu đời
Bằng chín pho sách máu
Chép sử một con người
Chín phút ấy, trái đất
Ngừng quay quanh mặt trời
Để quay quanh một người
Nhận chín vòng ánh sáng
8
Khi xe goòng bon bon
Than lên vàng Uông Bí
Khi lưới dăng êm bể
Cá lên bạc Sầm Sơn
Ba lần tăng nhịp máy
Ba lần lúa trổ bông
Ruộng tắm ba lần sông
Cơm đơm ba lần bát
Ba lần em bé hát
Ba lần ấm chiếu chăn
Vì trước khi nhắm mắt
Anh gọi Bác ba lần
9
Khi pháo nổ toàn hồng
Cô dâu hồng mắt trong
Đi song song tay chồng
Trên đường xanh nắng mới
Có tay Anh vẫy gọi
Ngân xa lời Anh nói…

Vâng, hạnh phúc long lanh
Anh cười rất thơ lành
Vì Anh chưa cần biết
Hạnh phúc đời riêng Anh.(*)

Hà Nội tháng 11- 1965
ST

Xem thêm bài khác

Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm



BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Hoàng Cầm

I . ĐẶT VẤN ĐỀ .
"Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu aikhông nhớ
Sẽ không lớn nổi thảnh người"
Mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời Bên kia sông Đuống

Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông. Đứng bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống, mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng . Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt .

II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .

Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:

"Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì "
“Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất. 

Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu :

"Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì"
Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Từ bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần.

Phải là người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng . Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.
Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng - biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ - biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

"
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp"
Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:

"Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu"
Ở đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc. 

Không chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ .
"Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu"
Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.
Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui, sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

"Ai về 
bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng"
Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.
Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sau nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới.

Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.

"Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ"
Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.
Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:

"Đã có đất này chép tội

Chúng ta không biết ngươi hờn"
Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.
Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội.

"Em đi trẩy hội non sông

Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh"

III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .

Bên kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.

Nguồn: Internet

Phân tích bài thơ "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm


Phân tích bài thơ "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm

Phân tích 7 câu cuối trong bài.



Gợi ý:

Trên cái nền của cảnh chợ chiều tưởng như hoang vắng, không còn ai là hình ảnh người mẹ yếu ớt và cô đơn :

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao bước thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa tạnh mái đầu bạc phơ


Đây là những câu thơ giàu chất tạo hình của cả đoạn, gây ấn tượng cho người đọc.

- Đầu tiên là hình ảnh bà mẹ già nua quẩy gánh hàng rong trở về khi chưa bán được một đồng. Xung quanh mẹ không có ai mà con đường như mỗi lúc một dài thêm : Bước cao bước thấp bên bờ tre hun hút.

- Bỗng nhiên xuất hiện hình ảnh con cò :

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu


Nhưng đây lại là hình ảnh con cò lạ lùng nhất xưa nay. Đó không là con cò trắng quen thuộc biểu tượng về người phụ nữ Việt Nam tảo tần khuya sớm :

Con cò đi đón cơn mưa
Tối tam mù mịt ai đưa cò về?

Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non


Đó càng không phải là con cò thanh thoát, nhẹ nhàng, thong thả trong cảnh yên bình :

Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay ra cánh đồng


Lần đầu tiên con cò đi vào văn chương với dáng vẻ hoảng hốt, sợ hãi :

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu

Đến con cò nhỏ kia cũng là nạn nhân của quân giặc. Những bãi mía nương dâu có ngô khoai biêng biếc giờ không còn là đất sống của nó nữa.

- Hình ảnh con cò bay vùn vụt càng khắc sâu nỗi cô đơn, lẻ loi của người mẹ quê :

Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa tạnh mái đầu bạc phơ


Nỗi khổ vật chất (lòng đói) đi liền với là nỗi khổ tinh thần (dạ sầu ). Nhịp thơ lục bát 2/2 gợi gánh nặng chất chồng lên vai mẹ. Buổi chiều ảm đạm đọng mãi hình ảnh mái đầu bạc phơ của người mẹ già. Câu thơ chỉ tả mà cảm xúc lại nghẹn ngào, đau đớn.
ST

Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm


Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm
Em ơi ! buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay


Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp


Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
Mộng bình yên
Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những cô nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già bay tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu… Về đâu…
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu… về đâu…
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu…
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
- Con là ai – Con ở đâu về
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn mảng tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao lóe giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi… cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ chiều xưa
Căm căm gió rét mịt mờ mưa bay
“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu…”
Em ơi ! Đừng hát nữa ! Lòng anh đau
Mẹ ơi ! Đừng khóc nữa ! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.


Việt Bắc, tháng 4- 1948.


Đó là vào năm 1959. Vụ Nhân Văn – Giai phẩm đã qua đi như một trận gió mạnh. Sau, dĩ nhiên có một vài cây đổ, lá rụng đầy đường, có những túp nhà tốc mái, có những bức tường xiêu vẹo. Xong, trời lại xanh, đường phố lại rộn rịp nếp sống thường ngày. Tôi, lẽ đương nhiên phải chịu kỷ luật (trên văn bản, giấy trắng mực đen do ông Nguyễn Đình Thi, tổng thư ký Hội Nhà văn ký : Khai trừ khỏi ban chấp hành Hội. Thời hạn 1 năm không được ấn hành tác phẩm – lưu lại Hội để giáo dục. Và cũng chỉ có thế, còn đời sống vật chất cũng chỉ sa sút có 50%. Vẫn có lương nhỏ nhoi hàng tháng (lương chính bị cắt tới 65%), lao động chân tay bắt buộc trong 3 năm, sau thì được tự giác tìm một nơi nào đấy lao động chân tay có thêm tiền bồi dưỡng. Cũng vui, và chính cái việc tôi sinh hoạt, sống ba cùng với nông dân, công nhân đã giúp tôi hiểu thêm về những số phận người.

Phải nói thật một điều, thường người ta khó tin, là hồi đó tôi không mang trong lòng – dẫu chỉ một ly – nỗi oán hận, nỗi buồn phiền, hoặc trách móc hờn giận gì ai. Đôi lúc, chỉ nghĩ về chính số phận mình, có chút cay đắng, có xót xa. Nhưng vì “đã mang lấy nghiệp vào thân” như Nguyễn Du nói, cái nghiệp thơ đầy đau khổ, oan trái, nhưng cũng nhiều hào quang toả ra từ tâm linh và từ những câu chữ kỳ diệu đã đem đến cho mình không ít giờ phút say sưa, ngay trong cuộc sống bình nhật cũng không ít hạnh ngộ đẹp, tôi được gặp nhiều người nam, người nữ rất trong sáng, yêu thương mình hết lòng. Dân tộc là thế đấy, thưa các bạn.

Vậy thì vào mùa thu rồi sang mùa rét 1959, ít khi tôi ra khỏi nhà. Ngày hai bữa cơm nghèo, mấy tấm áo quần đã sờn rách, một lũ con nhỏ dại lau nhau đi học, chơi đùa, đau ốm, tất cả tôi trao gánh nặng cuộc đời ấy cho người vợ rất giỏi chịu đựng kham khổ, người vợ thật hiền thảo, thật thương yêu chồng con (mà rồi đây, trong tập Nhớ lại một đời, tôi sẽ viết một chương riêng để đền đáp tình nghĩa lớn lao ấy cho người vợ đã giúp tôi đẩy chiếc xe thơ Về Kinh Bắc đi trọn đoạn đường thiên mệnh của nó).

Vâng, đúng là năm Kỷ Hợi 1959, từ khi chiếc lá bàng trước cửa nhà rụng xuống báo tin thu ( lá bàng chứ không phải lá ngô đồng), hồn tôi cứ chìm dần, chìm sâu, chìm và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi còn nhỏ dại, với biết bao bóng dáng, đường nét, mầu sắc, hương vị đã quá xa, đã “đi đâu, về đâu” tôi không thể biết nhưng cả một thời, từ khi vào tuổi bước đầu nhận thức được cõi đời này đến khi rời quê ra Hà Nội học tiếp rồi vào hẳn thế giới văn thơ (1938) nghĩa là cái khoảng thời gian 12 năm thơ trẻ ấy của tôi thì sống lại, và ngày đêm thầm thì nói chuyện với tôi về quê hương, về tình yêu, với những nỗi buồn, niềm cô đơn, nỗi xa cách, nỗi ly biệt cứ tầng tầng lớp lớp úp xuống hồn tôi như một đại dương trập trùng sóng gió, miên man xanh một màu huyền – diệu – dĩ – vãng rồi xẻ ngang, vạch chéo vút cao, xoáy sâu không biết bao nhiêu những nét rung động, có khi võ vàng, gầy mảnh, có khi tươi tắn, ngỡ ngàng, lúc như ai oán, lúc như mơ mộng nhưng vui ít buồn nhiều, cái đau của những thuyền tình không đến bến, những nguyện ước không thành, những mộng đẹp tan vỡ, những men say nửa chừng, những con mắt mỹ nhân đã khép, những tiếng hát người yêu đã tắt, những làn da mịn màng người gái quê Kinh Bắc đã nhăn nheo, những sợi tóc xưa óng ả nay đã úa bạc. Tất cả… tất cả… tôi bơi, chìm trong tất cả da thịt quê hương, hồn phách quê hương. Quê hương Kinh Bắc. Và lời mở đầu cho tập thơ là một lời cầu khẩn từ đáy tâm linh thơ dại : 
Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc.

Nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng Người Mẹ. Mẹ là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương. Huống chi mẹ tôi xưa vốn là một cô gái Kinh Bắc có nhan sắc, óng ả, kiều diễm, có đôi mắt “ lúng liếng” thật tình tứ, đôi mắt rất quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển, thanh tao và khi mẹ tôi mặc chiếc váy lụa kiểu Đình Bảng, mép váy buông chùng cửa võng xuống mu bàn chân, ai trông thấy phía trước mặt đều tưởng như người con gái này đang đi trên sóng rập rờn, nhất là khi người nữ biết cách mặc cho đúng “mốt Đình Bảng”, nghĩa là biết chếp nếp thế nào đó trên thắt lưng để ở phía dưới càng có nhiều pli càng đẹp. Cô nào giỏi chếp nếp thì từ mép váy lên có đến 4 pli. Nói rằng cô gái đang đi trên sóng, là một cách nói chuẩn xác.

Hơn nữa, mẹ tôi lúc chưa đi lấy chồng, nghĩa là chưa làm vợ người đàn ông sau này là cha tôi, đã nổi tiếng khắp vùng Tiên Du, Thuận Thành (hai huyện ở tả ngạn và hữu ngạn sông Đuống, thuộc tỉnh Bắc Ninh) nổi tiếng là cô thiếu nữ hát quan họ rất hay, năm nào cũng được các lão làng Bựu-Xim (tên làng quê gốc của mẹ tôi) khen thưởng cho cả phường hát ấy một tấm lụa điều và một bánh pháo đại quang toàn hồng. Lấy chồng rồi, ngoài công việc mưu sinh mẹ tôi vẫn theo các chị em đi hát. Tháng tám âm lịch thì tập luyện, sáng tạo ra những làn điệu mới, lời hát mới để đến ngày 13 tháng giêng sang năm, thì dự giải hát thi ở đình làng Bựu (làng này, thế kỷ 18, là nơi sinh ra người con gái tài sắc tuyệt vời Trần Thị Tần (1740-1778) để đến tuổi 18 thì Tần đi làm vợ thứ ba, người vợ yêu bậc nhất của quan Đại tư đồ Bình nam Tả tướng quân (ngang với Tể tướng) tên là Nguyễn Nghiễm, Xuân Quận công, và rồi sau sinh ra một đại thi hào cho đất nước : Nguyễn Du). Mẹ tôi (1891-1961) là con gái làng Bựu, đương nhiên được hưởng, được thừa kế tinh hoa quan họ. Đó là nghệ thuật hát thơ, những câu thơ (cốt lõi là thể lục bát) trữ tình, mang đầy sức quyến luyến, yêu thương, nhớ nhung, đằm thắm và da diết đến mức có thể làm say cả gỗ đá.

Lại cũng vì mẹ tôi cứ say mê với nghệ thuật hát mà thuở tôi chưa ra đời, giữa đôi vợ chồng trẻ (là bố mẹ tôi sau này) đã nảy sinh một bi kịch kéo dài đằng đẵng 12 năm. Năm 17 tuổi, mẹ tôi về Thuận Thành, làng Hồ, làm vợ bố tôi, mà tại sao tôi là con đầu lòng, mãi đến năm mẹ 31 tuổi, mới được xổ ra cõi đời này ? Thuở bé, tôi thường nghe các chú, các bác bên nội, bên ngoại kể chuyện một cách khái quát (không có chi tiết) rằng “bố mẹ mày chê nhau lâu lắm, đến hơn 10 năm đấy”.

Tôi nghe thế thôi, biết hỏi ai ? Ai kể chi tiết gì đâu về cái chuyện đôi vợ chồng ấy chê nhau đến hơn 10 năm? Bố tôi nguyên là một nhà nho (1886 – 1959), ba lần thi trường Nam Định không đậu nổi ở cấp hạng bét là tam trường, sau rồi bất đắc chí, bỏ làng đi dạy học lang thang và cũng lại lang thang đi chữa bệnh khắp các huyện trong hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, rồi đâu như cũng là người yêu nước có khí tiết, đã tham gia các phong trào Đông kinh nghĩa thục, Đông du, Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học. Tôi còn nhớ hồi lên 6 tuổi, tôi thường phải đun nước, điếu đóm, hầu trà để bố tôi tiếp bạn thân là ông Xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu). Năm tôi lên 7 (1929) bố tôi đã bị viên tri huyện Việt Yên đem lính đến khám nhà rồi tống giam ở thị xã Phủ Lạng Thương đến gần một năm mới được tha về (có lẽ là ông bị tình nghi, đế quốc Pháp đã dẹp tan Việt Nam Quốc dân Đảng, bố tôi không có chứng cớ gì cụ thể để chúng buộc tội). Từ đó thì bố mẹ tôi sống yên phận : bố bốc thuốc Nam, thuốc Bắc chữa bệnh, mẹ trĩu nặng hai bồ hàng xén đi các chợ làng, chợ huyện, một cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu toả nắng, chăm chút nuôi con ăn học bằng cách thắt lưng buộc bụng. Nhờ vậy tôi mới có điều kiện học được hết bậc trung học ở Hà Nội.

Vậy là trong người tôi hoà quyện hai dòng máu. Dòng máu của nghệ thuật quan họ, dân ca hoà với dòng máu yêu nước, hào hùng và khí tiết, và cả hai dòng đều rất mực sắt son, thuỷ chung như nhất. 

Thế nhưng, không hiểu sao, tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng? Hay chính là nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải sống cô đơn đến hơn mười năm ? Tôi lớn lên, chính mình được nghe mẹ kể : Lúc mẹ trở dạ sinh ra tôi thì gian nhà tre, mái rơm vách đất tiều tuỵ ấy rất trống vắng. Bố mẹ thì ở xa. Mẹ chồng goá bụa, già nua cũng ở xa. Chồng tuy mới làm lành với vợ được hơn một năm, mà người vợ ba mươi tuổi kia lúc mang thai cũng vẫn sống nhiều tháng ngày cô đơn, lạnh lẽo vì chồng cứ đi… đi đâu ? Dạy học hay làm thuốc rong, hay hội kín hội hở gì mà đi luôn thế, đến lúc vợ đẻ cũng không có mặt ở nhà ? Đến lúc đau quá, người thiếu phụ ấy kêu thét lên thì bên láng giềng mới có một bà chạy sang đỡ thằng bé ra đời, cắt rốn cho nó bằng con dao bổ cau rồi tắm rửa… tã lót cho nó, cũng may mà nó sống được, chỉ phải cái tội là sau mấy tiếng oa oa đầu tiên thì nó im bặt không khóc nữa. Chào đời mà không khóc cho thật to, thật dài hơi vào à? Thằng cu này gan nhỉ, hay là ai bắt mất vía để nó nghẹn không khóc lên được nhiều? Bà hàng xóm vừa bế tôi, vừa thắp hương lên cái ban thờ phía đầu giường, khấn vái bốn phương. Lúc đó đã gần nửa đêm 12 tháng giêng Nhâm Tuất (1922), chỉ còn một lát nữa là sang ngày hội Lim, hội quan họ, ngày mà nhiều năm về trước, mẹ tôi xúng xính áo the đen tứ thân, khăn vuông mỏ quạ, vành khăn nhiễu tam giang, váy lụa Đình Bảng, đi dép da trâu mũi cong, thắt lưng hoa đào hoa lý, cùng với bốn năm chị em phường hát đi ra đình từ sớm để rồi hát chúc, hát thi… còn ngay lúc sắp nửa đêm ấy, vào cái giờ tôi bật từ bụng mẹ ra cõi nhân gian rất đẹp mà cũng rất rắc rối lắm chuyện này, thì ở đình làng, cách nhà chừng non cây số, như văng vẳng vẫn còn tiếng trống chầu của đêm hát chèo. Mẹ tôi kể vậy nên tôi nhớ cả cái vùng Kinh Bắc cách đây sáu bảy mươi năm, các thôn làng thường mở hội suốt tháng giêng, tháng hai. 

Hội to thì kéo dài dăm ngày, hội nhỏ nhất cũng phải một ngày một đêm mới rã đám. Những lời mẹ kể tôi nghe từ năm lên sáu về cảnh nhà, cảnh xóm, cảnh thôn xã, cảnh phố huyện, phố phủ, cảnh chợ núi chợ sông, rồi đến chuyện người, ông bà, họ hàng nội ngoại, người xóm thượng, xóm hạ, người quê gốc… người ngụ cư, người cấy cầy, người chợ búa, người làm quan, người đi lính, người “làm thày, làm thợ với làm thuê”, người dân nghèo, sang hèn, quen thân hay sơ, nhiều lắm, mẹ tôi kể nhiều lắm mà hồn tôi từ thuở bốn năm tuổi cho đến khi biết đến cái cầu Long Biên và phường phố đô thành, hồn tôi đúng là một trang giấy mỏng manh, trắng nõn, tinh khiết, mẹ kể chuyện nào là cũng in đậm ngay vào hồn tôi chuyện ấy để rồi giá tôi được sống đến mười mươi chăng nữa sẽ chẳng có một cái gì có thể xoá đi được, dẫu chỉ là một nét mong manh, một màu thoáng nhạt, một hương vị thoảng qua… Vậy nên, cả tập thơ Về kinh Bắc tôi viết từ lập thu 1959 đến giữa xuân 1960, là quê hương tôi, cảnh ngộ gia đình tôi…. số phận mỗi người thân yêu… nhất là số phận những người gái quê Kinh Bắc đã hiện lên thành 48 bài thơ gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể, một khối n-phương thống nhất chia làm tám nhịp, mở đầu là Cúi lạy mẹ, con trở về Kinh Bắc và sau khi Xong cuộc tuần du là mươi dòng ước nguyện tạm kết thúc một chuyến về thăm quê xưa, về Kinh Bắc.
Bốn tám dáng thơ đi tám nhịp

Tuần du
Chưa vợi khối ân tình


Vâng, một cuộc “tuần du” đi từ người Mẹ ngược về những sự tích huyền sử, dã sử, về những chuyện tình huyền thoại đến cả những chuyện thực đã diễn ra hôm qua và hôm nay. Gọi là chuyện nhưng thơ lại là kết tinh. Trong viên ngọc kết tinh của muôn vàn nỗi niềm, cảnh sắc, hương vị, âm thanh, tiết tấu của cuộc sống vừa là xa xưa, vừa là đương đại, lúc huyền ảo, lúc hiện thực, như mê mà tỉnh, như ngủ mà thức, hư hư thực thực ấy, thì hình ảnh mẹ tôi bàng bạc bao phủ cả tập thơ, rồi đến một cậu bé con cầm chiếc lá Diêu Bông trong tay đi xuyên thời gian, xuyên suốt vùng quê đa tình, diễm ảo, và bên cạnh cậu bé con ấy là một người gái quê cũng đa tình diễm ảo, như cánh mây trắng mỏng cứ vần vụ, như chạy như bay, lại như đậu tà tà trên lá cỏ, trên cành hoa, lúc cao thì cao vút không ai níu được vạt áo, lúc thấp thì lại rành rành trước mặt như một cành cây, một chiếc lá bình thường. Hai nhân vật EM và chị này choán hết cả một nhịp – nhịp năm – của bản đại hợp xướng Về KInh Bắc trong khi cái giờ tôi ra đời thì tác giả đẩy xuống cuối nhịp bảy, sửa soạn cho nhịp cuối cùng của tập thơ. Đó là một khúc thơ có tên Luân hồi.
Nói chung, hầu hết những bài thơ của tôi được độc giả ưa thích trong nhiều năm bao giờ cũng bắt đầu một cách vi diệu là từ ngoài tôi, vẳng lên đôi ba câu nghe rất rành rẽ, giọng nữ lảnh lót mà rất xa, như hát mà như đọc. Như một tia nước trong vắt phun lên từ ruột đất khi chúng ta thăm dò mạch nước ngầm để đào giếng, khi đã có đôi ba câu vẳng lên bên tai, tôi ghi ngay, bắt lấy ngay và từ đó là tình cảm, suy tư cuồn cuộn trong người, tôi thường tiếp được mạch khởi xướng ấy và nối luôn các đợt sóng tuôn trào cho đến khi thấy trong người yên ắng, nhẹ nhõm là bài thơ cũng hoàn tất. Ví dụ như bài thơ dài Bên kia sông Đuống (tôi đã viết rất tỉ mỉ, thuật lại những trạng thái của tâm tư mình trước lúc bật ra thơ, bài viết ấy đã đăng trên Tuần báo Văn nghệ số kỷ niệm 35 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, tháng 5 – 1992) tôi đang ở trong trạng thái bồn chồn, thao thức, tâm tư rối bời sau khi nghe báo cáo về quê hương mình bị giặc Pháp xâm lược kéo lên tàn phá, giết chóc, tôi chưa định viết gì, lúc quá nửa đêm vắng lặng, bỗng văng vẳng bên tai ba câu :

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa… cát trắng phẳng lỳ

Tôi bèn chụp lấy, ghi ngay và cứ thế cảm xúc trào ra một mạch dài, viết rất nhanh, sợ không theo kịp những thanh âm, làn điệu đang cuồn cuộn dâng lên trong lòng mình. Cho đến gần sáng thì xong bài thơ, một trong những bài được các bạn già, trẻ, nam, nữ yêu mến đã gần nửa thế kỷ. Những bài thơ như vậy, thường là không theo một ý nghĩ, một tư duy nào định trước, tác giả giống như một cậu học trò viết chính tả, lúc đầu là viết theo tiếng đọc rành rọt bên tai, sau là viết theo tiếng đọc thầm thì từ trong tâm can mình, ở những trường hợp ấy, tôi không hề cấu tứ, nghĩ ngợi gì về câu, chữ, không theo một luật lệ nào gọi là thi pháp hoặc tu từ, hoặc chịu sự ràng buộc nào của phép tắc về thanh điệu, ngữ điệu gì gì hết. Tôi chỉ tuân theo nhịp rung động của toàn thân, cả tâm hồn và thể chất, khí chất. 

Đương nhiên, những bài bật ra như vậy không nhiều, còn người làm thơ thường phải khổ công tu luyện những con chữ, tu luyện từ ngữ đến nhịp điệu từng câu, tạo ra điệu riêng từng bài thì sau cùng mới có thể tạo cho mình một thế giới riêng. Đặc biệt, có bài Lá Diêu Bông, duy nhất có một bài này hoàn toàn là những lời văng vẳng bên tai, từ đầu chí cuối, quá nửa đêm mùa rét 1959, trên giường ngủ, trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ 6 watt, bên cạnh người vợ đang ngủ ngon và các con những giường bên cũng đang ngủ say. Tôi không gây một tiếng động khả dĩ làm mất giấc ngủ của những người thân. Đêm nào, khi lên giường nằm, tôi cũng cầm sẵn một tập giấy trắng bên tay trái và cái bút chì bên tay phải. Nếu ngủ được thì càng tốt, nhưng thường về đêm, tôi cứ hay thao thức, trằn trọc vô cớ. Chẳng có chuyện gì phải lo nghĩ, chẳng có ý định gì trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được. Bốn bề yên tĩnh. Nhà tôi ở vào một phố nhỏ, lại lùi tít vào phía trong nên tiếng xe cộ thưa thớt ngoài đường tôi cũng không nghe rõ. Im lặng. Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về :

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng…

Tôi xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay lên giấy. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng mà cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im bặt hẳn, lòng tôi nhẹ bẫng đi, được một lát thì tôi ngủ thiếp. Sớm hôm sau nhìn lại trang “bản thảo” thì có chỗ rõ, đọc được, nhiều chỗ dòng nọ đè lên dòng kia, chữ này xoá mất chữ khác. Phải mất nửa giờ, tôi mới tách được ra theo thứ tự đúng như những lời người nữ kỳ diệu nào đó đã đọc cho tôi viết lúc quá nửa đêm hôm qua. Bài Lá Diêu Bông ra đời như vậy, nói có người không tin, nhưng tôi nghĩ bây giờ khoa tâm thần học, vô thức luận, tâm linh học có thể lý giải được hiện tượng đó một cách rất khoa học. 

Vậy nên, cái lá diêu bông là cái lá gì, ở đâu, nào tôi có biết. Thần linh đọc diêu bông, tôi chép diêu bông, thế thôi. Nhưng nó có nguồn gốc đấy. Năm 12 tuổi, tôi say mê một người con gái láng giềng hơn tôi những 8 tuổi. Vì từ năm lên tám, tôi đi trọ học trên thị xã Phủ Lạng Thương, chiều thứ bảy, mươi phút xe lửa lại đưa tôi về nhà, ở cái phố ga xép Như Thiết, tên chữ nhà ga đề là Núi Tiết, thực tên là Thiết Sơn, một tổng thuộc huyện Việt Yên. Phố ga ấy cách Hà Nội 44 km. Còn 6 km nữa thì qua cầu sông Thương (con sông Thương nước chảy đôi dòng), tới ga Phủ Lạng Thương. Đường số 1 chạy qua trước cửa nhà, sau lưng là đường xe lửa Hà Nội – Lạng Sơn ngăn cách với mảnh vườn nhỏ sau nhà bằng một hàng rào cắt xén khá đẹp trồng toàn những cây ruối, dâm bụt dày dặn. Nhà tôi có tủ thuốc bắc của ông bố, có đôi bồ hàng xén của bà mẹ. 

Một chiều thứ bảy, khoảng hơn 4 giờ, tôi về chưa kịp bước vào trong nhà đã thấy một cô gái đang mua gì của mẹ tôi. Khi cô ấy ngửng đầu lên, nhìn ra đường thì cậu bé lên tám choáng người, như sau này người ta thường nói là bị “coup de foudre”1. Người con gái đẹp đến mê hồn. Rồi thứ bảy sau, về nhà, tôi trao bức thư tỏ tình đầu tiên viết bằng thơ lục bát, dài hơn một trang giấy kẻ học sinh trên có vẽ hoa vẽ bướm, một vài ngọn núi, một dòng sông với chữ viết đậm, mực tím, nắn nót : Em gửi Chị Vinh của Em. ấy, sở dĩ mới bé tí đã làm được một trang thơ lục bát vì ở trên nhà trọ, chỗ thân tình với bố tôi, chủ nhà chính là ông sếp ga xép Núi Tiết ấy, gia đình ông trên tỉnh đông con, làm nghề hàng xay hàng xáo, đêm nào cũng xay lúa giã gạo rồi dần sàng quạt sẩy đến khuya. Tôi học bài, làm bài xong, tuy buồn ngủ, các anh các chị cứ bắt xuống nhà ngang, từ 9 giờ tối, đêm nào cũng phải đọc đủ các thứ truyện dân gian, in khổ nhỏ, bán rẻ từ 2 xu đến 1 hào, đủ các loại truyện, thể thơ lục bát, từ Trê Cóc đến Truyện Kiều, từ Nhị Độ Mai đến Hoa Tiên, rồi Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa… Lục Vân Tiên, Phạm Tải, cả Cung oán ngâm khúc đến Chinh Phụ ngâm… v. v… Vì thực ra, ngay từ bé tôi sớm có giọng hát hay, ngâm thơ cũng hấp dẫn người nghe lắm. 

Đọc hết lượt, phải đọc lại. Thể thơ lục bát thấm vào người từ nhỏ tuổi, mình lại bẩm sinh yêu thích thơ ca, nên tôi có viết bức thư tình gửi người gái Kinh Bắc, người Chị làm Em say mê ngơ ngẩn suốt năm năm ấy, mà thư tình lại viết bằng thơ lục bát thì hẳn không phải là điều gì đáng ngạc nhiên phải không, thưa các bạn ? Tôi say mê Chị, Chị đi đâu Em theo đấy, chỉ biết gọi Chị ơi, chứ còn biết nói gì hơn. Người gái tuyệt sắc ấy con một nhà nho chẳng may chết sớm, ba mẹ con, mẹ goá con côi nghèo khổ, đèo bòng nhau lên cái phố xép này mở ngôi hàng bán kẹo bánh, nước chè tươi, nước vối, cả bánh đa, bánh đúc, bánh chưng, bánh mật, bánh khoai. Chị Vinh võ vẽ chữ nho, đọc thông quốc ngữ, người quê gốc cũng Tiên Du, nên hát quan họ thì làm mê người ta ngang với nhan sắc của Chị. Chị cũng thừa biết thằng bé con này nó mê đắm mình nên Chị cứ hay trêu đùa, lắm lúc tôi phát khóc, nhưng cũng nhiều giờ phút tôi có một hạnh phúc không gì sánh bằng là được Chị Vinh cho ngồi sát bên Chị, chầu rìa những cuộc chơi tam cúc ngày Tết, ngày xuân hay ngày hội. Chị thường hay nhờ những đêm trăng sáng vào mùa hè, mùa thu, tổ chức những đám thanh thiếu niên tụ tập ở cái bãi sau ga, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát giao duyên, hát vấn đáp, đặc biệt là về môn hát quan họ thì Chị là bà Chúa của dân ca ! Giọng ngọt, say như mật ong, đôi mắt đen thăm thẳm với hàng mi cong và dài, má luôn luôn ửng đỏ, môi luôn luôn đã hồng lại thường hay cắn chỉ quết trầu, răng đen rưng rức hạt na. 

Chị Vinh ơi, viết đến đây, Em vẫn bồi hồi nhớ từng sợi tóc Chị dán trên vầng trán, từng con mắt Chị lúng liếng tình tứ, từng giọng hát, từng lời nói, từng nụ cười, Em còn ngửi thấy hơi tóc ấm của Chị thoảng mùi hương nhu mới gội buổi chiều, mà nếu Chị buông tóc dài gần đến mắt cá chân để hong khô thì cả suối tóc ấy làm thành thế giới mê say của riêng Em từ độ ấy đến nay, dẫu tóc Em đã trắng hết, Em vẫn có thể vẽ đúng chân dung Chị tuyệt vời nếu có người chỉ dẫn cho Em đôi điều sơ đẳng về nghệ thuật hội họa. ảnh Chị in mầu trong hồn Em, không một nhà khoa học nào có thể làm ra cho Em những tấm ảnh như Em đang có trong một mảnh hồn lả lướt xanh xao, trong một tâm tư u buồn chạng vạng mà vẫn còn đầy đủ và tươi tắn, nguyên vẹn những kỷ niệm từ sáu bảy chục năm xưa đấy, Chị ơi !

Tình của người Em với người Chị ấy, sơ lược là thế. Tôi sẽ viết tỉ mỉ hơn nhiều trong tập hồi ký sau này, để một số bạn ở xa quê hương hiểu kỹ về tôi hơn, tránh được những điều bình luận sai lạc thậm chí nguy hiểm nữa mỗi khi luận về những thi phẩm của tôi. Trong tập Về Kinh Bắc, thì hai nhân vật Chị và Em ấy đã xuyên qua năm tháng và không gian, qua mưa phùn và nắng rát, qua biết bao hình thái của tâm tư, của số phận, mà trội lên vẫn là cái sầu đơn phương, cứ vấn vương mãi, cho tôi nhớ mãi đến hết một kiếp này, biết đâu còn xót xa yêu thương vào tận kiếp sau… kiếp sau nữa…

Vậy chỉ mới sau vụ Nhân văn – Giai phẩm có một thời gian ngắn, thơ của tôi đã lùi về quá khứ, chẳng biết có phải ẩn dụ ẩn diếc gì chăng, chỉ có điều là qua thời gian viết được ra 48 bài thành tập thơ Về Kinh Bắc này, tôi không một phút nào nghĩ đến thời cuộc chính trị và xã hội trước mắt. Tôi chìm về một quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà tưởng như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và bảng lảng không gian, xanh mơ mong manh mầu kỷ niệm pha chút tím của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thắm của say mê não nùng, của thương cảm không có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy con mắt của thời gian không hề suy suyển đến một sợi mi cong… Như gần đây tôi đã phải thốt ra : “Mắt thời gian càng miên man xanh”.

Rồi Chị Em Đi Về Kinh Bắc, lúc thì đố Lá diêu bông, lúc vào Vườn ổi, lúc Đánh tam cúc, lúc lên Ngọn sông Thương, lên tít Ngọn Kỳ Cùng, lúc Đếm sao, Đếm nắng, Đếm giờ, Em cứ theo đuổi Chị qua hội hè rồi qua cả những tàn tạ của cảnh vật và lòng người, cho đến mùa rét năm 1934. Cái Lá diêu bông bắt nguồn từ buổi chiều năm ấy, hình như vào dịp lễ Thiên chúa Giáng sinh, những bốn năm ngày liền tôi về gia đình ở cái phố ga xép đìu hiu ấy, nghĩa là cứ được nghỉ học thì tôi về ngay nhà với niềm say mê đơn phương, một chuyện tình có Chị có Em mà tôi vẫn chỉ là một khối cô đơn “lẽo đẽo bụi hồng”. Tôi đã 12 tuổi và chị Vinh đã 20. 

Vào chiều mùa đông năm ấy, nắng hanh vàng rộm. Trời xanh trong màn sương cực mỏng không một gợn mây. Heo may se se lạnh. Chị mặc váy kiểu Đình Bảng, áo cánh lụa mỡ gà đã cũ, có mảnh vá trên vai, ngoài bó chẽn lưng ong bằng cái gi-lê tím, sờn rách, chiếc yếm màu cánh sen đã nhạt, dây thắt lưng hoa đào phai, Chị thoăn thoắt đi ra ngoài cánh đồng, ngày ấy lúa đã gặt hết. Cả cánh đồng rộng đầu cái phố ga xép ấy chỉ còn trơ những cuống rạ tít tắp đến chân dãy núi Neo. Cậu bé Em 12 tuổi, vốn dĩ lúc nào cũng trông ngóng, ngó nhìn, chờ đợi Chị, thấy Chị đã bỏ cửa hàng chiều vắng khách, mặc cho đứa em trai lên sáu ngồi xua ruồi hoặc ăn vụng cái kẹo vừng, rồi thấy Chị bước nhanh ra cánh đồng, đương nhiên là cậu Em theo ngay, và bất kỳ đi theo Chị ở đâu, đến đâu, cũng chỉ cách sau lưng Chị có ba bước. Chị đi trên bờ ruộng, cứ vạch từng búi cỏ đầu bờ hoặc từng đám cây hoang dại trên mấy cái gò nhỏ giữa đồng và cứ cúi tìm… tìm mãi… chả biết Chị tìm gì vậy. 

Em cứ theo sau, không hỏi, không nói, trống ngực cứ thập thùng từng giây phút theo đuổi, miệt mài lâng lâng say. Lâu lắm, bỗng Chị đứng thẳng người quay mặt nhìn Em, rồi nói, như một lời trách, như một lời quở mắng, lại như một lời mình nói với chính mình (gần 60 năm rồi, hôm nay tôi còn nhớ như in từng lời trong bộ não đã hơi suy, trong tấm lòng may thay vẫn là tấm lòng 12 tuổi) : “Ơ hay ! Sao mày cứ theo tao lẵng nhẵng mãi thế nhỉ ?”. Máu Em dồn lên nóng ran khắp người, hẳn là cậu Em đang đỏ mặt, môi Em run run, không nói lại với Chị được nửa lời. Hình như Em thoáng thấy Chị mỉm cười, rồi Chị lại bước sang bờ ruộng khác, vẫn tìm… tìm mãi. Nắng đã sẫm dần. Mãi sau, Em mới bạo dạn hỏi :

- Chị Vinh ơi ! Chị đi tìm cái gì thế ?

Chị Vinh quay phắt lại, hình như má Chị hồng hơn lúc nãy. Chị nhìn thẳng, nhìn xoáy vào mắt Em và gần 60 năm rồi, tôi vẫn nhớ như vẽ cái miệng rất tươi của Chị đậm nét một nụ cười trêu cợt rất bí ẩn kiêu xa. Chị nói, cũng một giọng bỡn cợt như thách đố, như đùa vui trêu ghẹo :

- ừ, Chị (các bạn chú ý dùm tôi cách thay đổi chủ từ trong câu nói này của Chị) Chị đi tìm cái lá… ấy đấy, đứa nào tìm được cái lá ấy (Chị càng cười càng rõ vẻ trêu cợt) ta gọi là chồng !

Các bạn ơi, nghe vậy, tim tôi như lặng đi ngừng lại vài giây rồi đập rất mạnh, người tôi nóng ran lên trong buổi xế chiều càng lạnh. Lúc đó, Chị nói tên một cái lá có lẽ có thật, chỉ mấy năm sau thì tôi quên bẵng, thôi thì hôm nay tôi cứ gọi cho nó có tên như Chị đã gọi tên, lá thanh thảo hay đài bi chẳng hạn, hoặc gọi lá tai voi, lá mắt nai gì đó, xin thú thật với các bạn là ít lâu sau buổi chiều mùa rét ấy, tôi không nhớ nữa. Nhưng ngay lúc bấy giờ, sau cơn nóng bừng, toàn thân ấm áp vào tận đáy thẳm tâm hồn ấy, tuy mới 12 tuổi, tôi cũng đã nghĩ ngay ra rằng cái lá ấy rất hiếm, ở những vùng nào nhiều đồi núi, khe suối cơ, may ra mới tìm được, mà tìm lá ấy chắc là để chữa khỏi một chứng bệnh gì hiểm nghèo nguy kịch hoặc có khi lại lấy lá vò nát ra, hay giã kỹ lấy nước xoa lên khắp mặt sẽ làm cho da dẻ tươi hồng, mịn màng lên. Nhưng hẳn là khó tìm lắm lắm, chả thế mà Chị đi hết bờ này bãi nọ, gần cả một buổi chiều, có thấy được đâu ! Cái lá oái oăm thế ! Chị mới trêu đùa thằng bé mà Chị biết là nó đang say mê mình, nó “phải lòng” mình từ năm năm nay rồi… còn gì ! “Đứa nào tìm được… ta gọi là chồng !”. 

Chị Vinh ơi, bây giờ Chị ở cõi nào, nếu còn sống, Chị cũng đã gần tám mươi tuổi đấy chứ, sao hôm nay, Em đã ngoài 70, lúc Em viết những trang nhớ lại này, Em hoàn toàn vẫn là đứa em 12 tuổi đang theo Chị và Chị vẫn đang tuổi hai mươi, ngoài cánh đồng chiều làng Như Thiết ấy, Chị vẫn trẻ đẹp diệu kỳ Chị ơi !

Chiều ấy, trời xẩm tối rồi, Chị lại cho Em được cầm tay Chị. “Chị em thơ thẩn dan tay ra về”… mà nào đâu chiếc lá ? Hết phép nghỉ, tôi lại lên thị xã ở trọ, ngày hai buổi đến trường, cặp sách trong tay, hình ảnh Chị trước mắt, lời nói trêu đùa của Chị không lúc nào không réo gọi trong tấm lòng cô đơn trống trải của cậu con trai sớm đã si tình.
Chiều thứ bảy sau, khi tôi xuống tàu, vào phố xép đi về nhà, nhìn sang nhà Chị Vinh thấy cánh liếp đóng im ỉm. Tôi như lạc mất trí, chạy vội vào nhà, cũng không kịp chào mẹ tôi đang ngồi khâu vá trên cái chõng tre, mà hỏi ngay :

- Mẹ ơi, sao bên nhà chị Vinh lại đóng kín cửa thế hả mẹ ?

Mẹ tôi kéo tay tôi ngồi sát bên, nói rất nhỏ, mà hình như trong giọng nói của mẹ tôi có cái gì như nước mắt nghẽn lại :

- Nó đi lấy chồng rồi, con ạ.

Tôi bỗng khóc oà lên, khóc như có một thế giới nào vừa đột ngột nổ vỡ tung ra trong vũ trụ. Tôi gục đầu vào lòng mẹ, khóc m•i, lòng mẹ tôi đấy mà sao tôi lại khóc như đứa trẻ lên ba, mẹ đang bế đi chơi, đến một cánh đồng chiều vắng, bỗng dưng mẹ biến đi đâu mất, để đứa bé bơ vơ giữa mênh mông trời đất cô quạnh và xa lạ, lạnh lẽo thế. Mà nó khóc !

Tôi chỉ kể với các bạn đến đây thôi, còn cuộc đời người Chị ấy về sau, tôi chỉ xin tóm gọn bằng bốn chữ đã quá cũ kỹ, nghe rất sáo mòn, nhưng tôi không thể dùng được những từ nào khác ngoài bốn chữ ấy : Hồng nhan bạc mệnh…
Trở lại mùa rét năm 1959, nghĩa là đúng một phần tư thế kỷ đã qua sau cái buổi chiều mùa đông có Chị có Em trên cánh đồng quê. Chị đi tìm lá rồi… Chị đố lá… “Đứa nào tìm được… ta gọi là chồng…” Và bài thơ Lá diêu bông ra đời trong đêm khuya, như tôi đã kể ở trên, bài thơ duy nhất trong đời làm thơ của tôi do thần linh giọng nữ cao đọc từ đầu đến cuối cho tôi chép như viết chính tả. Còn một số bài khác như Cây tam cúc, Quả vườn ổi, Cỏ Bồng thi, Bên kia sông Đuống, Chùa Hương, Về với ta… những bài cũng được nhiều bạn đọc ưa thích trong nhiều năm nay thì bao giờ cũng ra đời trong đêm và vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là của tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc có nhịp điệu, có tiết tấu, mà tôi cứ xin gọi là lời của thần linh đọc cho mình chép lại được. Nếu chợt nghe mà lười biếng, hoặc chủ quan nghĩ rằng để sáng mai sẽ ghi lại ra giấy thì chỉ một vài phút sau, muốn nhớ lại, không tài nào nhớ nổi một chữ, đừng nói là cả ba bốn dòng… 

Trong đời làm thơ của tôi, thời còn trai trẻ, tôi đã mất khá nhiều những câu thơ “xuất thần” bất chợt trong đêm khuya, lúc chưa ngủ được, nên từ hồi đầu kháng chiến chống Pháp, tôi đã rút kinh nghiệm, cứ đến giờ (thường là gần nửa đêm) lên giường ngủ, bao giờ tôi cũng để bên phía tay trái mình một tập giấy trắng và tay phải cầm cái bút chì học sinh (bây giờ đ• có bút bi thay cái bút chì). Hễ không ngủ được, tâm tư lan man đâu đâu, gì gì đó, mà bỗng nghe vẳng một câu, dẫu chỉ là một câu bâng quơ, tôi phải ghi ngay lập tức. Lười một tí thôi là mất đứt. Mà thường lại là những câu thơ rất có sức gợi cảm. Dẫu tiếng văng vẳng đã tắt, mà cảm xúc chưa tan, thì những dòng thơ cứ tự nhiên bật trào ra ngay, tôi viết tiếp bằng cảm xúc của mình. Y như đã có tia nước phun lên thì phải tiếp tục đào đất, chắc chắn sẽ có được cái giếng đầy nước. Lúc đó thì cả ba loại thơ (như các nhà phê bình văn học Trung Quốc đã đúc kết thành lý luận về thơ) là ngôn thi, tâm thi và thần thi đều có thể xuất hiện trên trang viết. 

Và cùng lúc đó thì có ba cái “thức” đều phải vận động, phải làm việc cho thơ. Đó là ý thức, tiềm thức và vô thức, cũng đủ cả một cặp : trí thức và tâm thức nữa. ở tôi thì luôn luôn cái tâm thức làm việc nhiều hơn trí thức, nhất là với toàn tập Về Kinh Bắc, tôi đã huy động tất cả nội lực của mình : cả thể lực, trí lực, tâm lực và đương nhiên, ở tôi, thần lực thường tự động làm bật ra rất nhiều lời thơ lắm khi tưởng như vô nghĩa, mà ngay bản thân tôi cũng không hiểu những từ ngữ chính mình viết ra mang ý nghĩa gì cụ thể. Ai hỏi tôi lá diêu bông, cỏ bồng thi là lá gì, cỏ gì, ở đâu ? Tôi chịu không giải thích được. Ngay cả nhiều sinh viên khoa Văn ở Hà Nội cũng đã hỏi tôi : “Miếu Hai Cô” là ở đâu ? Hai Cô nào ? Tại sao lại thờ ? Hoặc cầu bà Sấm là trên con sông nào, bến cô

Mưa là ở khúc nào của con sông nào, tôi cũng chịu không có lời giải đáp.

Tôi nghĩ rằng, trong lĩnh vực thơ ca, những khúc hát hay, những bài thơ, những câu thơ hay thường rất khó giảng hết được cái hay của nó. Vì ngoài ý nghĩa cụ thể của từng câu, từng chữ, thơ lại còn nhạc điệu, mà theo tôi hiểu, nhạc điệu của một bài thơ lại chính là chiếc xe chở cái hồn của bài thơ đi để nhập, để hoà với hồn người đọc. Và người xưa cũng đã nói từ lâu đến “thi tại ngôn ngoại”. Thơ đã có ý là dễ hiểu. Nhưng thơ lại còn cái tứ. Cái tứ ở đâu ra ? Từ chữ, từ âm vận, rồi âm điệu. Cái tứ của thơ, phải đọc được ngoài lời. Có nhiều bài thơ mang một tứ rất lạ, rất khó giảng, khó bình, mà nhiều khi chỉ cảm thấy được thôi.

Tôi hy vọng, rất chân thành, được gặp những tâm hồn bầu bạn, có độ lượng để bao dung, có tấm lòng nhân ái để thông cảm, có tri thức đủ để hiểu thấu đáo tác phẩm và tác giả, hiểu cả điểm mạnh và điểm yếu của một người suốt đời lấy Thơ làm cứu cánh, làm mục đích, làm lẽ sống, chứ không bao giờ lấy Thơ làm phương tiện để cho mình đạt tới những gì gì đó mà tâm hồn mình không thể chấp nhận. Ví dụ như danh và lợi, sự bon chen, sự cầu cạnh, sự tâng bốc nịnh hót, dèm pha, thù hận v..v… là những cái rất xa lạ với tôi, có lẽ xa lạ cả với Thơ chân chính nữa.

Tôi đã trở về với tâm tư riêng, thế giới riêng của mình như đã nói ở trên, về với quê hương xưa, vùng Kinh Bắc xa xưa mà vẫn gần gũi, về với những người đã khuất bóng ở nhân gian nhưng mãi mãi hiện diện trong tâm hồn tôi. Và tập Về Kinh Bắc đã ra đời như thế, mặc nhiên thành cột xương sống cho toàn bộ thi phẩm của tôi kể từ những năm 40 của thế kỷ này. 


Hà Nội, những ngày cuối năm 
Nhâm Thân 1992
--------------------------------

Sưu tầm.