Jul 7, 2012

Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện "Vợ nhặt"



Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện "Vợ nhặt"



Truyện ngắn Vợ nhặt được Kim Lân sáng tác sau Cách mạng tháng Tám, nhưng bối cảnh của tác phẩm là nạn đói khủng khiếp năm một chín bốn lăm.

Đặt câu chuyện trong bóng tối của thời sự đói khát và chết chóc ấy, nhà văn đã thể hiện cảm động tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và niềm khao khát hạnh phúc của những người nghèo khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả phát hiện và tập trung xây dựng thành công ở nhân vật bà cụ Tứ, mẹ của anh Tràng, người đã “nhặt” vợ.

Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ thương con như muôn ngàn người mẹ Viện Nam khác. Nhưng người mẹ ấy được đặt trong một tình cảnh hết sức éo le. Đó là việc Tràng, con trai của bà, giữa lúc nạn đói hoành hành lại lấy vợ. Nhưng dường như chính nghịch cảnh này càng làm nổi rõ ánh sáng tâm hồn ở người mẹ đáng thương.

Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện từ giữa truyện, lúc anh Tràng đưa vợ về, song từ đấy, dù rất ít nói, bà vẫn là người thu hút nhiêu nhat tâm trí của người đọc. Bởi trong lòng người mẹ ấy, cảm trăm mối tơ vò, chuyện nay, chuyện xưa đan xen lẫn lộn, niềm vui, nỗi buồn, sự cay đắng tủi cực lẫn xót thương vây lấy.

1. Tâm trạng bà cụ Tứ lúc về nhà

Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối, bà cụ Tứ về nhà. Chưa thấy người, nhưng anh Tràng biết là mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi với vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn. Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi bữa anh cu Tràng đâu có thế. Mà còn gọi với vào trong nữa. Trong nhà nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con. Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm hỏi: Có việc gì thế vậy? Anh cu Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà.

Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đưng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu. 

Cái anh cu Tràng hôm nay thật lạ. Tự dưng khách sáo với mẹ, cứ buộc bà lão phải ngồi lên giường lên chiếc ghế chĩnh chệnh rồi mới nói. Bà lập cập bước vào. Cái người đàn bà lạ ấy tưởng mẹ Tràng già cả, điếc lác lên cất tiếng chào đến lần thứ hai. Hoá ra, bà không điếc, bà mải băn khoăn vì người đàn bà ấy chào bà bằng u. Bà vẫn chưa hiểu vì sao lại thế. Đến khi anh Tràng nói: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi u ạ! Thì bà hiểu rất nhanh. Đột ngột quá! Bà cúi đầu nín lặng. Bà không chỉ hiểu chừng ấy. Trong lòng người mẹ nghèo ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn con mình thì… Chỉ nghĩ đó, bà đã thấy biết bao lo lắng, xót thương. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?

2.Tâm trạng bà cụ Tứ với đôi vợ chồng son:

Vợ chồng anh cu Tràng nào biết nỗi lòng bà cụ Tứ . Trông cảnh của chúng, bà khẽ thở dài rồi nhìn đăm đăm vào người đàn bà mà từ giờ phút này đã là con dâu. Bà nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ... Nghĩ thế, bà càng cay đắng cho thân phận của mình. Bà là mẹ, bà đã chẳng lo được gì cho con... May ra mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà la cho hết được? Trong cái khổ, có cái may. Bà khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”: một khi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, bà cũng mừng lòng.

Bà cụ Tứ còn dặn dò đôi vợ chồng trẻ: Nhà ta nghèo liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.

Nói với con dâu là thế, nhưng lòng bà cụ Tứ thật ngổn ngang. Bà đăm đăm nhìn ra sông. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào két lẹt. Bà lão thở dài ra một hơi. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không? Những câu hỏi lại bám lấy trong đầu bà. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy xót thương. Bà nói với con dâu, lẽ ra đám cưới phải làm được dăm ba mâm, nhưng nhà mình nghèo quá. Chắc cuũngchả ai người ta chấp nhặt, chỉ mong vợ chồng hoà thuận là bà mừng. Nhưng lúc đói to thế này mà chúng mày lấy nhau thì bà thương quá.

Ôi biết bao là buồn, vui, vay đắng, tủi cực cùng sự lo lắng, thương xót đang tràn ngập trong lòng người mẹ nghèo khổ. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa. Bà không khóc mà nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Nhưng bà đâu muốn để cho đôi vợ chồng son biết bà đang buồn. Khi anh cụ Tràng đánh liềm đốt đèn, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng lên. Bà chủ động nói vui: Có đèn à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa... Dầu bây giờ đắt gớm lên mà ạ. Nói thế, rồi bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Bà đem cả cái tâm trạng ngổn ngang sang chiếc giường cũ kỹ!

3.Tâm trạng bà cụ Tứ sau đêm tân hôn của con trai:

Đêm hôm ấy, dẫu những tiếng khóc hờ ngoài xóm có lọt vào cái nhà rúm ró, nhưng đôi vợ chồng son hẳn ngủ rất ngon. Anh cu Tràng thật “hư”, khi, mặt trời lên bằng con sào, mới trở dậy, người êm ái lửng lơ như người từ trong mơ đi ra. Nàng dâu mới có vẻ “biết điều”, dậy sớm hơn, quét lại sân. Chỉ có bà lão, chắc đêm qua không ngủ được. Đầu hôm, bà nghĩ tới việc kiếm lấy ít nứa về đan cái phên ngăn căn nhà ra. Chưa biết chừng nửa khuya bà đã dậy. Khi anh cu Tràng thức dậy, xung quanh đã thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn đều được quét sạch sẽ gọn gàng... Hai cái ang nước vẫn để khô ong ở dưới góc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoàn ngay lối đi đã hót sạch. Bà cụ Tứ đang lúi húi giẫy những bụi cỏ dại mọc nham nhở ngoài vườn.

Thấy con trai đã dậy, bà cụ Tứ vội giục nàng dâu đi dọn cơm ăn chẳng muộn. Sáng nay, lòng bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của và rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Bà và cả đôi vợ chồng Tràng, hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.

Bữa cơm sáng hôm nay cũng là bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Nhưng có điều lạ là hôm nay, bạ cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Bà bàn tính với nàng dâu khi nào có tiền mua lấy đôi gà, rồi ngoảnh đi ngoảng lại chẳng mấy chốc có một đàn gà cho mà xem. Vì thế chưa bao giờ trong nhà này mẹ conm lại đầm ấm, hoà hợp đến thế. Khi niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng nửa bát đã hết nhẵn, bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Đấy là nồi cám, mỗi khi đưa vào miệng, đắng chát và nghẹn bứ trong cổ, nhưng bà lão cho mọi người mà miệng tươi cười, đon đả nói, gọi là “chè khoán” và khen ngon đáo để. Bà không muốn bữa ăn đang vui bỗng ngừng lại. Thực ra, lòng đau lắm. Cả một nỗi tủi hờn đang len vào tâm trí bà

Khi ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợt hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, bà cụ Tú giải thích cho nàng dâu biết đấy là tiếng trống thúc giục thuế. Đói khát như thế này, vẫn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua ngày được. Bà ngoảnh vội ra ngoài vì không dám để con dâu thấy bà khóc. Mà đó lại là những giọt nứoc mắt khóc bởi cái tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà!

Bà cụ Tứ xuất hiện trong Vợ nhặt của Kim Lân có một đêm và non buổi sáng hôm sau. Chừng ấy thời gian vừa đủ cho một người ngủ dậy muôn. Nhưng đối với người mẹ nghèo khổ kia, quả là rất dài. Chừng ấy thời gian, song ở bà, có biết bao buồn vui, mừng tủi, cay đắng, âu lo, lẫn hy vọng. Người mẹ ấy đã sống trọn tất cả đời sống bên trong của một người con. Và, vì thế, dù thời gian mải miết trôi đi, hình tượng bà lão đáng thương đó vẫn hết sức sống động bởi đây là nhân chứng của một thời hãi hùng, cũng là biểu trưng cho trái tim, phẩm giá của một người mẹ!

(Sưu tầm)
Bài viết liên quan
++++++++++++

Ý nghĩa nhan đề "Vợ nhặt" và ý nghĩa tình huống truyện?



Ý NGHĨA NHAN ĐỀ VÀ Ý NGHĨA TÌNH HUỐNG TRUYỆN VỢ NHẶT



* Giải thích ý nghĩ nhan đề “ Vợ nhặt”

Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm. "Nhặt" đi với những thứ không ra gì. Thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể "nhặt" ở bất kì đâu, bất kì lúc nào . Nhưng "vợ" lại là sự trân trọng. Người vợ có vị trí trung tâm xây dựng tổ ấm. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng "nhặt" vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.

Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.


* Ý nghĩa tình huống truyện Vơ nhặt

Tràng là một nhân vật có ngoại hình xấu. Đã thế còn dở người. Lời ăn tiếng nói của Tràng cũng cộc cằn, thô kệch như chính ngoại hình của anh ta. Gia cảnh của Tràng cũng rất ái ngại. Nguy cơ "ế vợ" đã rõ. Đã vậy lại gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn luôn đeo bám. Trong lúc không một ai (kể cả Tràng) nghĩ đến chuyện vợ con của anh ta thì đột nhiên Tràng có vợ. Trong hoàn cảnh đó, Tràng "nhặt" được vợ là nhặt thêm một miệng ăn cũng đồng thời là nhặt thêm tai họa cho mình, đẩy mình đến gần hơn với cái chết.

Vì vậy, việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt. Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, cùng bàn tán, phán đoán rồi cùng nghĩ: "biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?", cùng nín lặng. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi "cúi đầu nín lặng" với nỗi lo riêng mà rất chung: "Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?" . Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình: "Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ". Thậm chí sáng hôm sau Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.

Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí. Qua đó, tác phẩm thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.

(ST)
Bài viết liên quan
++++++++++++


Phân tích tâm lí nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân


Phân tích tâm lí nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân


Cái cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao...
(Ca dao Việt Nam)

Sẽ chẳng bao giờ ta quên cánh cò bay mải mê chấp chới...cách cò trắng gầy guộc suy tư lặng lẽ như cuộc đời người mẹ. Người mẹ việt nam hiền lành, nhẫn nhục thương con va giầu lòng nhân ái. Chẳng biết từ bao giờ hình ảnh người mẹ đã trở thành một đề tài khá quen thuộc trong thi đàn văn học Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ 1945-1975. Giữa những năm “đói mòn đói mỏi” ấy nếu như cái đói đã làm con người ta mất đi nhân tính vui với “một bữa no”, “một cái móng giò” thì đây vẫn còn những người mẹ giầu lòng nhân hậu săn sàng đánh đổi sự sống của mình để cưa mang kể khác. Có đọc Vợ nhặt của Kin Lân ta mới thấu hiểu thé nào là lòng mẹ. Vâng, “Lòng mẹ bao la như biển thái bình dat dào”.

Truyện được mở đầu bằng một tình huông khà độc đáo. Vào một buổi chiều “Tối sầm lại vì đói khát” giữa những năm tháng “người chết như ngả rạ” ấy. Chàng lại dắt về giới thiệu một “nàng dâu”. Cả cái xóm ngụ đang bị cái đói làm mờ cả măt ấy bỗng xôn xao hẳn lên: Người thở người thì “khẽ thì thầm” người “bỗng lại cười lên cùng cục” và họ cùng nín lặng. Cái khống khí ảm đạm ấy đi theo tràng và người đàn bà nọ đến tận nhà. 

Buổi lễ ra mắt hêt sức kỳ quặc và hết sức bất ngờ. Không bất ngờ làm sao được khi mọi chuyện lại xảy ra một cách chóng váng như thế, dẫu bà cụ Tứ có thương con đến mấy lòng cũng không khỏi ngạc nhiên. Tràng nhắc đi nhắc lại mấy lần: “Kìa nhà tôi nó chào u”. Nhưng bà cụ vẫn không hiểu. “Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường. Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Chỉ đến khi Tràng nhắc lại “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ.” thì bà lão mới vỡ lẽ. Ra là thế. Đọc đến đây tự dưng tôi lại nhớ đến bà mẹ trong Một đám cưới (Nam Cao), bà mẹ ấy trong đám cưới của con mình dù là một đám cưới nghèo đã hoạt bát và nhanh nhẹn biết bao. 

Giá trong hoàn cảnh khác có lẽ mẹ Tứ cũng vui mừng và hớn hở như ai, làm cha làm mẹ có ai lại không mong con cái yên bề gia thất có cháu để ẵm bồng, nhưng qua cái giọng ngập ngừng đứt quãng của Tràng hình như phần nào ta cũng nhận ra cái xót xa đến tội nghiệp. Tràng không ngờ. Bà lão càng không ngờ. Ai có thể ngờ rằng Tràng sẽ cưới vợ đúng hơn là nhặt vợ trong lúc này đâu. “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi.”. Trong cái khoảnh khắc lặng im ấy có đến hàng trăm hàng nghìn nỗi lo toan giữa lòng mẹ. “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa tiếc thương cho số kiếp đứa con mình”. Chính giữa lúc này chấp nhận “nàng dâu” là mẹ Tứ đồng tình với cái khó cái khổ cái đói đang de doạ tính mạng của gia đình bà. Cuộc đời mà ai có thể biết được ngày mai sẽ còn ai sẽ mất ai trong những năm tháng đói khổ này. Chắc hẳn bà nghĩ lung lắm. Ta chợt nhớ đến bà lão trong Một bữa no, cái đói làm người ta mất hết nhân cách mất cả tính người. 

Ở đấy mẹ Tứ có thể từ chối thẳng thừng “nàng dâu” mà anh con trai đã nhặt được. Tình cảnh này, có ai trách bà đâu. Nhưng... làm sao bà cụ có thể hành động như thế một khi bà nghĩ đến cái được vợ của con và cái mất của người kia thì người ta theo không về ở với con mình. Bà mẹ quê hiền lành. Làm sao bà có thể chối từ khi người đàn bà đáng thương kia cũng đang đói khổ như bà. Tục ngữ có câu: “Thương người như thể thương thân”. Phải rồi, bà đã khổ và đã hiểu thế nào là đói khổ thì lẽ nào... Nhiều khi cái khổ, cái đói lại giúp người ta xích đến gần nhau hơn! Hình như sự đồng cảnh là một động lực thúc đẩy người ta hiểu và thông cảm nhau hơn.

Bà lão đã khóc, “trong đôi mắt kèm nhèm của bà rũ xuống hai dòng nước mắt”. Có thể nói đoạn anỳ Kim Lân đã trở thành một nàh quay phim tài ba. Từ từ trong cận cảnh hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim một thời vất vả của mẹ Tứ và trên khoé mắt nứt nẻ ấy rịn ra một giọt nước mắt khô héo. Nước mắt của người già. Nguyễn Khuyến đã viết:

Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai dòng chứa chan.


Năm tháng qua đi, những nhọc nhằn, lo toan, vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ không khóc được nữa “nước mắt người già chảy ngược vào trong tim”. Vâng, mẹ già rồi nước mắt của mẹ chỉ đủ làm thành hai dòng lăn chậm trên khuôn mặt già nua nhân hậu ấy thôi. Bà khóc cho niềm vui và khcó cho cả nỗi buồn. Đấy là nước mắt của người mẹ! “May ra mà qua khỏi được cái tôi đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được”. Bà lão nghĩ thế nên bà quyết định. “Ừ thôi tuỳ các con”. - Đọc đến đây ta như cùng Tràng “thở phào một cái ngực nhẹ hẳn đi”. Tất cả những gì của thực tại của đói rét ngoài kia vụt biến đi phút chốc, chỉ con đây cái khung cảnh ấm áp của gia đình. Bà lão vui, vui lắm chứ, bà nói với nàng dâu mới với cái giọng ngân nga như hát “ Nhà ta thì nghèo...ai khó ba đời”. Người già hay cả nghĩ, lắm lo xa, bà lão chợt : “Nghĩ đến ông lão, đến đứa con út”, “đến cuộc đời cực khổ dằng dặc của mình mà lo lắng” đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không? Người xưa nói đúng, bao giờ lòng mẹ cũng bao la, cũng “dạt dào” như “nước trong nguồn chảy ra”. 

Giữa lúc đói nghèo lại phải “đèo bòng” thêm một miệng ăn mẹ Tứ nghĩ về nàng dâu mới không phải ở cảm giác của một người biết ơn, mà tràn đầy tình yêu thương. Người mẹ nghèo nhân hậu ấy càng thấu hiểu cảnh ngộ xót xa của nàng dâu mới càng thương chị ta hơn. Tâm trạng bà cụ buồn vui lẫn lộn. 

Giữa cái “tao đoạn” này niêm vui càng trông càng tội nghiệp. Đọc đến đây tôi cứ hình dung cái cảnh con chim sơn ca đang bị giam hãm trong lồng. HÌnh như niềm vui của mẹ Tứ ở đây cũng trở nên héo hon, như không thể thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của sự buồn tủi, xót thương của cái không khí thời đại lúc bấy giờ. 

Nhưng với tấm lòng của người mẹ, bà vẫn gượng làm vui “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão săm sắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, “vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn”, “nói toàn chuyện vui, toàn hcuyện sung sướng ngày sau”. Tất cả như vẽ ra trước mắt chúng ta khung cảnh đầm ấm, hoà thuận của một gia đình, bình thường nhưng lại rất bất bình thường trong những tháng năm 1945. 

Tác giả đã khéo giấu đi cái không khí ảm đạm thê lương ngày thường chăng? Theo tôi thì không. Chính lòng mẹ đang vun vén cho hạnh phúc mới của con đấy. Dù chẳng trọn vẹn nhưng cũng phần nào gieo vào lòng đôi vợ chồng trẻ niềm tin vào ngày mai. Một ngày mai tươi sáng hơn đang chờ họ. Mẹ nghĩ thế và chắc chắn sẽ là như thế! Chính tình thương của mẹ đã mang đến hạnh phúc cho Tràng , đem lại lối thoát cho vợ Tràng và tất yếu tình thương ấy sẽ mãi mãi nâng đỡ họ.

(Sưu tầm)



Bài viết liên quan
++++++++++++

Phân tích tác phẩm "Vợ nhặt" - Kim Lân



"Vợ nhặt" - Kim Lân
Phân tích tác phẩm.

Bài viết liên quan
++++++++++++


Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy” và “Trung Bắc chủ nhật”. Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con người cô đầu”, ”Cô Vịa”…) mang tính chất tự truyện, nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê (đánh vật,chọi gà,thả chim…). Các truyện: ”Đôi chim thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một cách sinh động những thú chơi lành mạnh, qua đó thể hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng _những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam _mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn 1962). Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ông là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn (Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK Văn học 12)

Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân luôn đặt ra những vấn đề xã hội làng quê rất tự nhiên và gần gũi ,dễ đi vào lòng người đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã thể hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo, phản ánh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng nói chung của những ngừơi nông dân trong thời chiến và những ao ước giản dị của họ , tạo nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc .

Ngay trong tựa đề,Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc.Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện hệ trọng trong cả đời người,thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh “Vợ Nhặt”,một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân trong cái bối cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu 1945,một trong những thời kỳ đen tối trong lịch sử.Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng,mù mờ của một buổi tối chiều “chạng vạng”.Và thấp thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con người “xanh xám như những bóng ma”,”nằm ngổn ngang khắp lều chợ”,”những cái thây nằm cong queo bên đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực thẳm giữa sự sống và cái chết,một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác ngừơi”.Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một không khí nặng nề,phản ánh được cuộc sống của người nông dân lúc bấy giờ mới khó khăn,cực nhọc đến dường nào,gây xúc động cho mỗi chúng ta khi ông cha ta đã trải wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay gạo,chịu đói rét.

Trong khung cảnh đó,nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc sống.Tràng được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người dân lúc bây giờ: hai con mắt gà gà,nhỏ tí,hai bên quai hàm bạnh ra,bộ mặt thì thô kệch,thân hình thì “vập vạp”,cùng với cái kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh hệch”,”cái đầu trọc nhẵn”,”cái lưng to rộng như lưng gấu”,và cái áo nâu tàng vắt ở một bên tay,một hình ảnh hết sức hoang dã trong xã hội đói nghèo .Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém phần hoang dã như thế: cành dong rấp cổng,tấm phên rấp che nhà,mảnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại,mà Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư,loại người lúc bấy giờ bị coi khinh,ruồng bỏ,một thứ cỏ rác hương thôn.Và Kim Luân đã dùng sáng tạo nghệ thuật của mình,gây ra những bất ngờ cho người đọc ở đầu truyện :”Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy,một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa.”Một người đàn bà đã bước vào cuộc sống của Tràng.

Tràng có vợ.Người như Tràng mà có vợ.Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con gấu hoặc gốc cây xù xì,trần trụi ấy,lại trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái ranh giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia,mà lại nhặt được “thứ” vốn biểu trưng cho hạnh phúc.Tràng có vợ một cách hiển hách,oanh liệt,cứ như một anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ buông ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh,mà “cô nàng” đã vội vã theo không.Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về một thời thảm hại. Nhưng đó không phải là một chuyện cổ tích hay theo một mô tuýp chàng ngốc gặp tiên nữ,nhưng đây lại là một sự thật não lòng.Người vợ mà được Tràng nhặt về được trên đường đời thảm đạm cũng thuộc về một dạng người giống như Tràng.Chân dung của chị ta cũng là một bức ký họa khác với tự nhiên,với những đường nét tai hại cho người phụ nữ:”cái ngực gầy lép,khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”,..gầy xọp,rách mướt,” áo quần tả tơi như tảo đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc đời Tràng.Nhưng khéo nhất là những dòng được viết,Kim Lân cho ta nhận thấy:cái người phụ nữ đói rách kia còn xa mới có thể coi là hiền thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá,cái trơ của người đàn bà lao động nghèo tài thế,sinh động đến là như thế.Kim Lân cũng rất tài tình khi tả vợ của Tràng rất cong cớn nhưng không nanh nọc,trơ trẽn.Và cũng chính cái cong cớn,sưng sỉa, đanh đá,trơ trẽn kia,nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo,tâm tối chứ tuyệt không sinh ra từ cái ác,cái xấu xa.

Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại như:”Rích bố cu,hở”,”Hà,ngon!Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”,”Làm đếch gì có vợ.Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”. Đó là ngôn ngữ của tình duyên,hay cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng khao và người đàn bà cắm đầu ăn liền một chập,chẳng buông một lời trò chuyện gì.Bốn bát bánh đúc trong những ngày tháng đói kém,chúng đủ phép màu để làm hai con mắt trũng hoáy của người phụ nữ đói rách sáng lên.Có xót xa không,khi cái đói tuy mang lại nhiều đau khổ lại cũng có thể xe duyên cho một mối tình giữa hai tâm hồn cũng nghèo khó. Điều đó,ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt giữa Kim Lân và người nông dân,nên ông mới có thể miêu tả người nông dân trong những năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy,và những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên dưới đó lại là những nỗi buồn và niềm thương cảm.Những trang viết về những con người “dưới đáy” thế này thì không làm ta khinh ghét họ mà xót thương và buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt hơn trong cái xã hội mà được mọi người gọi là con người mà chính cái xã hội đó cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái nghèo đói.Ở đây ,tác giả không phải nói về những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách.Ngược lại ,với việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,lắt lay,nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm được sống, được thương yêu và hy vọng.Niềm ao ước hạnh phúc đó không thể diệt trừ cái đói hay sự u tối của một tương lai không mấy sáng sủa và nó cũng không bị diệt trừ.Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát,tối tăm và chính bởi thế mà nó trở nên cảm động và đáng qúy biết chừng nào.

Khi “nhặt” vợ về,Tràng không phải là không biết suy nghĩ:”thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng”.Nhưng rồi anh lại tặc lưỡi:”Chậc,kệ!”.Một quyết định có vẻ rất tầm thường với một sự việc hết sức trọng đại trong thời điểm bấy giờ.Nhưng ta có thể hiều rằng,cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa với việc là Tràng đã đánh cuộc với đời,với cái nghèo đói, để sống “đầy đủ” cuộc sống bình thường như mọi người. Đó là khát vọng làm người mà một kẻ thô kệch,chất phác như Tràng vẫn có đã khiến Tràng liều lĩnh một phen.Và Tràng cũng đã được đền bù:”Trong một lúc,Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề,tăm tối hàng ngày,quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa từng ngày,và quên cả những tháng ngày trước mặt.Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và ngừơi đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ,lạ lắm,chưa từng tấhy ở người đàn ông nghèo khổ ấy,nó ôm ấp,mơn man khắp da thịt Tràng,tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.”Qua đó,Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc: Khác với những người có đầu óc bi quan thường nghi,sự đói khát,nghèo khổ không làm giảm đi giá trị của lòng người.Bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng qúy hơn tất cả,ngay cả khi người ta tưởng như rằng không còn cần gì hơn là một miếng cơm ăn.

Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc.Và Kim Lân,hạnh phúc, đến lượt nó,lại có thể làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng hạn.Tràng hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày hôm qua.Anh Tràng hôm nay ngượng nghịu,khổ sở,tay nọ xoa xoa mãi vai kia,chỉ vì đi bên một người đàn bà ở một nơi vắng vẻ,muốn buông một câu tình tứ mà chịu không sao nói nổi.Rồi đến khi vợ hỏi,anh chàng to xác ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ nghệch,ngây thơ:”Có một mình tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng,cũng đúng thôi,nhưng có ai đã từng sống qua mà không thấy: có những cái ngượng nghịu,cái ngẩn ngơ,những sự “khổ sở êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây thật là hạnh phúc.Cái xúc động mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên người vợ nhặt,ngẫm ra cũng không ít điều xót xa,cay đắng,nhưng ít nhất cũng là một thứ xúc động,lâng lâng,bồi hồi,biến người đàn ông thô nhám và chai sạn thành một đứa trẻ lớn tuổi hiền lành.

Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế.Nó không chỉ là một sự việc buồn cười.Có lẽ cũng nên nhận ra dưới cái cười,một tiếng thở dài thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua có hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử chỉ có vẻ lãng mạn,ga-lăng lắm lắm.Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng có.cái hãnh diện được làm một người chồng, đuợc có một đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu hoang một chút để có lấy một lần sáng sủa trong cái thực tại mù mờ:”Hai hào đấy, đắt quá,có mà thôi chả cần.”,một lời nói nghe sao mà thật tội nghiệp,nhưng trong cái tội nghiệp đó là một niềm vui không tầm thường,bởi trong hoàn cảnh như thế của Tràng lúc ấy, được coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn hơn, trong trẻo,qúy báu hơn đâu có thể cho là một niềm vui hạ cấp?”

Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ:”Kìa nhà tôi nó chào u.”.Kim Lân quả thật rất tài trong việc sử dụng những lời thoại ít chữ,văn xuôi hết sức,những câu văn không hề cầu kỳ,gọt giũa,mơ mộng,mà mang đậm phong cách làng quê và lại rất tình cảm chứa đọng trong từng câu nói.Người mà Tràng gọi là “nhà tôi” ấy,cái người con dâu đang thực hiện những nghi lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng tuy là chỉ nhặt được,chưa trải qua cưới hỏi,chưa gặp mặt qua một lần,chưa được mẹ chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng những tiếng của Tràng gọi nghe thật nở ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn hoi,rành rọt trước mẹ Tràng,người đàn bà ấy và chính Tràng,một sự thật hiển nhiên:”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”.Tuy sự xác nhận ấy có chút nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có được một cuộc sống của con người bình thường:”Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng..Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người.” Đó cũng là những ao ước của những người nông dân luôn mong có được một gia đình hạnh phúc.Giống như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao,từng có khát vọng cùng Thị Nở xây dựng gia đình,dù rằng đi làm thuê mướn cho người ta,cùng nhau mỗi ngày được thưởng thức “bát cháo hành” của vợ.Chính những cái ước mơ vô cùng giản đị như thế đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt,và Kim Lân đã đưa vào tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy tính nhân bản ,tạo nên sự đồng cảm thiết tha cho người đọc.

Nói về người vợ của Tràng,người đã tìm ra một chốn để nương tựa thân phận người phụ nữ của mình trong cảnh đói nghèo,Kim Lân đã bộc lộ vài sự thất vọng thầm kín khi thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng thở dài cố nén trong “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà rách nát và rúm ró;cách nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần khi bước vào nơi ở của anh chàng mới lúc ban ngày còn vỗ túi khoe “rích bố cu”;hai con mắt thoáng tối lại khi được bà lão đon đả mời ăn bát cám.và khi trên đường “rước dâu” dài dặc giữa xóm ngụ cư.cái cô nàng cong cớn và trơ trẽn hồi nào bỗng trở nên e dè ngượng ngập;và có khó chịu lắm trước những sự tò mò trêu cợt thì cũng chỉ dám càu nhàu trong miệng,khẽ đến mức ông chồng đi bên cũng không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên con đường về nhà chồng,cả cái dáng điệu khép nép ngồi mớm ở mép giừơng và tiếng chào u lúng túng..tất cả những cái đó chỉ làm cho người đàn bà gầy nhom,xám xịt và rách rưới c1o được cảm giác m2inh đã là một nàng dâu thực sự,một bông hoa đã có chủ.Và chính Tràng cũng ngạc nhiên trước những thay đổi của nàng ta:”Tràng nom thị hôm nay khác lắm,rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”Cuộc đời éo le và nhận hậu bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị vợ kia lại chịu đi theo một người đàn ông như Tràng ,xấu xí và xa lạ như để tránh sự cô đơn và nghèo đói.Thế mà khi đến nhà chồng thì nàng ta vẫn chẳng thoát được cái đói của cuộc đời.Nhưng bù cho điều đó nàng lại nhận được một món quà khác đó là tình thân,tình thương,một mái ấm gia đình,một nghĩa vụ phải biết lo lắng cho nửa kia của mình và cũng là điều mà Kim Lân muốn nói:dù đói khổ,khó khăn vất vả nhưng không thể thiếu trong cuộc sống tình thương yêu gia đình, điều đó mới có thể giúp ta cảm thấy được mình vẫn là một con người bình thường như bao người khác.

Kim Lân thật tài trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng.Nó lửng lơ,với những câu nói trổng không,dân dã,bình thường,nghe rất lạ lẫm đối với những cặp vợ chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng thoáng chốc trở thành vợ chồng,ngay cả khi đi chung với nhau vẫn còn chưa hết ngượng ngùng.Và nó không chỉ thể hiện qua lời nói,mà còn qua cái củng vào trán cùng với một tiếng “dơ”,cái cười hì hì của gã đàn ông,và trước đó là cái lườm của chị vợ..giống như nhân vật Thị Nở của Nam Cao:”Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm.”Nhưng đối với chị vợ của Tràng thì đó còn là một người đàn bà đói rách đang đong đưa con mắt để quên cái xấu,cái nghèo của mình mà nghĩ đến “tình yêu vợ chồng”.Một cái nét đẹp, đáng quý, đáng yêu, đáng buồn cho cái hạnh phúc của đời thường,nạn nhân của xã hội nghèo khổ,nắm bắt ngay những thời cơ để được yêu, để được biết thế nào là hạnh phúc, được hưởng thụ một lần trong đời và để được sống như bao ngừơi khác,và nếm được hương vị của gia đình.

Và một nhân vật được Kim Lân đưa vào ngay giữa truyện đó là bà cụ Tứ,mẹ của Tràng,một nhân vật làm nổi bật cái khát khao của hai chữ “gia đình” lúc bấy giờ.Bà cụ không hài hước như đôi vợ chồng Tràng,mà đó là một con ngừơi đã một kiếp phải sống trong nỗi đau,vất vả,nuôi con khôn lớn.Và cũng chính cái kinh nghiệm từng trải,lòng ám ảnh của một quá khứ nặng nề với nhiều nỗi đắng cay và những băn khoăn của người làm mẹ:”Bà lão nhớ đến ông lão,nghĩ đến đứa con gái út.Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dái dằng dặc của mình.Vợ chồng chúng nó lấy nhau,cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Điều đó cho ta thấy rằng bà cụ Tứ về những nghịch cảnh éo le của việc hôn nhân, đặc biệt là một cuộc hôn nhân “vội vã” và trong cái thời điểm cũng chẳng ư là thích hợp.Và bà cụ cũng tự nghĩ rằng đó là một duyên kiếp không nên có:”Chao ôi,người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này.Còn mình thì…biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.Nhưng sự tình đã rồi,trứơc mắt bà là ngừơi con dâu,mặt cúi xuống,”tay vân vê tà áo đã rách bợt”.Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ là một cơ may:”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này,người ta mới lấy đến con mình.Mà con mình mới có vợ được…Thôi thì bổn phận bà là mẹ,bà đã chẳng lo lắng được cho con…”câu văn nghe thật cảm động nhưng có chút gì nhoi nhói,một chút tủi hờn,ai oán số phận,nén cái cảm giác bất đắc dĩ trứơc việc đã bày ra trứơc mắt,hoà với chút rưng rưng,xao xuyến một niềm vui.Qua đó ta càng lại thấy qúy trọng người mẹ chồng này hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới:”Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau,u cũng mừng lòng”,lột tả cái thần thái của tấm lòng vị tha cao cả,giấu đi những giọt nứơc mắt xót thương vì sợ gây cho người mình thương xót nhiều lo lắng:”Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ.” Đó là thứ ánh sáng mờ trong đêm tối,một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định,một thứ không biết lúc nào tắt,nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành cho vợ chồng Tràng.Có thể nói bà cụ Tứ là người có nhiều hy vọng nhất:từ cái việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai cho kín đáo;rồi việc”khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” và những ước mơ nghe thấy chạnh lòng “rồi may ra ông giời cho khá…Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà không ước ao gì cao xa,bà chỉ ao ước cho con mình,cho gia đình ,cho thế hệ con cháu mai sau,vun vén những gì tốt đẹp nhất cho con cháu..Có ai ngờ rằng một bà cụ đang chờ về thế giới bên kia,lại có niềm hy vọng tràn trề không bị tàn lụi theo năm tháng và tuổi tác.

Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề trái ngược nhau, đan xen thành một chỉnh thể nghệ thuật chung.Ta có thể thấy rõ khi nói về việc Tràng đưa vợ về nhà,cái nhìn của người dân xóm chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến”,:”Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên.Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát,tăm tối ấy của họ.”,rồi sau đó là “một người thở dài”,và sau tiếng cười rung rúc bất chợt nổi lên là sự nín lặng_nín lặng của nỗi buồn lo.Rồi lại trong lời bà cụ nói:”Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi.năm nay thì đói to đấy.Chúng mày lấy nhau lúc này,u thương quá…”.Và rõ nhất là những giờ phút hạnh phúc của đôi vợ chồng son trên cái nền âm thanh của tiếng ai hờ khóc người chết đói cứ tỉ tê lúc to lúc nhỏ,dai dẳng tận đêm khuya.Sự đan xen tình huống truyện ngây ngô của những ngừơi nông dân chất phác,bình thường với những ước mơ nhỏ nhoi giữa một thế giới ,một tương lai mở nhạt, một cuộc sống u ám, ranh giới giữa sự sống và cái chết.

Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá”.Mở đầu là một anh Tràng cô đơn bước cao bứơc thấp trên con đường khẳng khiu dưới ánh chiều mờ của một gầm trời đầy đói khát,nhưng kết thúc là Tràng đã có một gia đình,mọi ngừơi đang xăm xắn quét tước,thu dọn nhà cửa cho quang qủe và cố làm cho nhau vui trứơc một bữa ăn loãng thếch và đáng chát,và cũng có len lỏi vào đó một nỗi tủi hờn trứơc việc phải ăn món ăn vốn không phải là của con người,rồi lại tiếng trống thúc thuế trên mảnh đất đầy người chết đói,xua đoàn quạ hốt hoảng vù bay,khiến nền trời thành đen vẩn.Song lại có câu chiện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đõ phấp phới trong óc Tràng.Anh đã nhận thức được con đường để thoát nghèo đói là đấu tranh,hình ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý tưởng đúng đắn nói riêng,và tinh thần đấu tranh của người nông dân đang thôi th1uc họ mạnh mẽ tháot khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy vọng rực cháy về một tương lai sáng sủa,một khát vọng tình yêu,hơi ấm gia đình,hoà bình và tự do.Qua đó Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của những người nông dân rũ bùn đứng dậy sáng loà,chiến đấu vì đất nứơc,vì để thoát khỏi số phận tối tăm trứơc mắt.Hình dáng người nông dân nổi bật trước lá cờ đỏ sao vàng,lá cờ lý tưởng cách mạng,lá cờ của niềm tin chiến thắng.Và qua đó nói lên một niềm tin,một hy vọng tràn trề về một chiến thắng,sự thoát khỏi cuộc sống cơ cực và hai từ “hoà bình” ,”tự do”.

Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc,mang đậm tính chất nông thôn,cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo ,giản dị vô cùng mà vẫn ánh lên được chất hào hoa Kinh Bắc.những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua những cử chỉ hành động một cách tinh tế :tiếng gắt vô duyên vô cớ,một tiếng khẽ ho bình thừơng,những bứơc chân bứơc vội ra sân,thái độ điềm nhiên và miếng cám vào trong miệng…Nhưng cái đọng lại cúôi cùng là cái nhìn đời,nhìn đời đầy xót xa và thương yêu của nhà văn,là niềm tin mà ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta qua tác phẩm.Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì chính cái cội nguồn nhân bản lưu giữ cho nâhn dân là bất diệt,và con ngừơi không có kháo khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên ngừơ,có được mái ấm gia đình,một cuộc sống ấm no đầy đủ,tình yêu đôi lứa,niềm hạnh phúc trong cuộc sống và tình thương yêu giữa người với người,và để bảo vệ chính mình, để thoát khỏi sự áp bức, đói khổ,những ngừơi nông dân trở thành lá cờ đầu cho công cuộc bảo vệ đất nứơc.

Có thể nói,tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân là một sự tiếp nối của những tác phẩm văn chương hiện thực phê phán như của Nam Cao,Tô Hoài,…từ trứơc Cách mạng tháng Tám .Vẫn những mảnh đời éo le,bất hạnh,hay gặp những mảnh đời khó khăn trong những tình huống dở khóc dở cười,hay trong tác phẩm này,chúng ta lại thấy một cuộc sống của những ngừơi nông dân sau Cách mạng trong cái đói nghèo của một xã hội cần được phải cải thiện mới, đó là những người có một tâm hồn trong sáng,tràn đầy lòng yêu thương,luôn luôn ấp ủ trong tâm hồn mình những hy vọng, ước ao nhỏ bé ,hồn hậu.Chính Kim Lân đã đưa người đọc quay về một thời đen tối của nạn đói,qua đó ngừơi đọc đồng cảm ,xúc động cho những số phận, những mảnh đời bất hạnh sống.Người đọc còn nhận ra điều Kim Lân muốn gửi gắm đã nêu ở trên. Nhữnghình ảnh,chi tiết về anh Tràng cùng chị vợ trong cuộc hôn nhân “vội vàng”,e ấp,ngại ngùng trên đường về nhà và hình ảnh bà cụ Tứ trong hình ảnh một ngừơi mẹ,một ngừơi từng trải ,về những băn khoăn cho con cái thật sự làm đau đớn,chạnh lòng khi đọc đến những câu văn tha thiết,súc tích biết dường nàoBản thân tôi, khi đọc những dòng văn mà Kim Lân viết,tôi đã có rất nhiều cảm xúc,những cảm xúc tự hào về cha ông đã không vì nạn đói,nguy nan trứơc mắt mà từ bỏ để rồi xây dựng nên đất nứơc Việt Nam như ngày hôm nay,cảm xúc về những ngừơi nông dân bình dị nhưng lại chất chứa bên trong những niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng đầy nhiệt huyết. Tuy thời gian đã qua ,nhưng những hình ảnh về một thời đ1oi khổ,một thời chiến đấu của nhân dân ta vẫn còn hiện lại trong tôi như mới đây thôi. Điều đó càng làm tôi cảm thấy mình có trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước mà chính những người nông dân,và ông cha ta đã gầy dựng...

Sưu tầm

Phân tích giá trị độc đáo của tình huống truyện Vợ Nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân


Đề 1: Phân tích giá trị độc đáo của tình huống truyện Vợ Nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân .


- Bàn về tình huống là gì?
- Bối cảnh để xuất hiện tình huống: nạn đói 1945
- Những biểu hiện cụ thể của tình huống.
 

Bài làm: 

1.Mở bài :
 
Kim Lân viết truyện ngắn không nhiều nhưng được coi là một trong những cây bút tài năng để lại những áng văn đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại, ông rất sành về cảnh quê, người quê và thế giới của hương đồng gió nội . Trên 50 năm lao động nghệ thuật , ông chỉ có hai tập truyện ngắn ít ỏi .
Vợ Nhặt là một chương được viết lại của truyện dài Xóm ngụ cư mà ông đã làm thất lạc 1946. Hòa bình 1954 được lập lại , theo đơn “ đặt hàng” của báo Văn nghệ nhân kỉ niệm Cách mạng tháng Tám , tác giả đã công bố truyện Vợ Nhặt. Như vậy, truyện ngắn này nó có được cái độ chín của một quá trình nghiền ngẫm lâu dài và kĩ lưỡng về mặt nghệ thuật.

2.Thân bài:
 

Khi đề cập đến truyện ngắn , người ta thường quan tâm tới ba yếu tố: tình huống truyện ; nhân vật của truyện, giọng điệu trần thuật của tác giả. Có nhiều truyện ngắn sự sáng tạo tình huống đóng vai trò then chốt, đặt vào trong tình huống ấy, nhân vật truyện thường bộc lộ sâu sắc , tâm lí và tính cách ; tư tưởng nghệ thuật của thiên truyện cũng nhờ thế mà đậm đà ; các chi tiết xoay quanh tình huống ấy trở lên hấp dẫn và giàu ý nghĩa. Phát hiện ra tình huống trong cuộc sống đời thường chằng chịt nhiều mối quan hệ đã là rất khó , thế nhưng, giải quyết tình huống ấy lại cần đến tài năng, bản lĩnh nghệ thuật và quan trọng nhất là tấm lòng người viết. Chỉ có vậy thì tình huống ấy, nhân vật ấy mới trở thành điển hình nghĩa là rất cá biệt , rất lạ đồng thời cũng nói lên được bản chất sâu sắc của cuộc sống.
 

- Bối cảnh rộng lớn nhất để cho một tình huống này xuất hiện chính là nạn đói khủng khiếp 1945 và qua đây ta thấy được số phận bi thảm của con người . Chính 
Kim Lân đã công khai ý đồ sáng tác của mình “ trong sự túng đói quay quắt , trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui để mà hi vọng( Báo Văn nghệ- số 19-1993). 
Vợ nhặt đã nói lên cái hình tượng nghệ thuật về một sự thực lịch sử là nạn đói 1945 từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói ( Tuyên ngôn Độc lập, cái nạn đói mà trong Đôi mắt của Nam Cao, nhân vật Độ đã hồi tưởng “ Cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000 , con cái chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình” 2 triệu người quằn quại chết trên tổng dân số 20 triệu người không phải là con số ít ỏi. Bóng đen chết chóc đã phủ xuống xóm làng Việt Nam. Cái đói “ đã tràn đến” quả là hình bóng của thần chết đang lạnh lùng đi gây niềm kinh hoàng cho người dân nước Việt , tràn đến gợi đến những cơn đại hồng thủy, gợi một sự tàn diệt không thể tránh khỏi của con người. Tác giả đã gây ra một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh con người năm đói và hoàn cảnh không gian của nạn đói . Tất cả đều đầy âm khí chết chóc. “ Những gia đình từ những vùng Nam Định , Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt nhau lên, xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ . Người chết như ngã rạ , không buổi sáng nào không gặp 3, 4 cái thây nằm chòng queo bên đường” Kim Lân gọi họ là những bóng ma vật vờ trên dương thế . “ Bóng những người đói dật dờ đi lặng lẽ như những bóng ma”. Con người và bóng ma; cái ăn và cái đói, sự sống và cái chết , chỉ là một lằn ranh như sợi tóc . Tất cả đang bước về phía ma.

Miền trần gian ta cứ ngỡ là miền địa ngục. Trong thế giới của những xác người ngổn ngang ta nghe được ban ngày tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết cùng với mùi gây của xác người ; ban đêm tiếng khóc hờ của người sống , với người chết và gây gây bởi đống rấm đốt đồ người chết. Tất cả được chụp bởi vung trời mùa đông xám xịt lặng lẽ - Người chết đã đành, những người sắp chết thật bi thảm có thể thấy điều này qua nhân vật cô gái vô danh sẽ là một người vợ nhặt
 cũng vô danh của nhân vật Tràng . Cái đói đã làm cho thị rách rưới như tổ đỉa và cái mặt của cô ta trở nên gầy guộc khô lạnh như lưỡi cày . Cô sẵn sàng sà xuống quán ăn liền tù tì một lúc 4 bát bánh đúc và sau đó lon ton chạy theo một người đàn ông không quen để làm vợ với mục đích khỏi chết đói. 
Đầy liều lĩnh, buồn vui , lo âu, hi vọng.

a) 
Trước hết ta ngẫm nghĩ về cái tên của tác phẩm: Người ta thường nói vợ đẹp, vợ hiền, vợ như tiên không ai lại để ở một động từ phía sau để định danh, để xác định một phẩm chất. Vợ nhặt có nghĩa là cô vợ ấy được một người đàn ông nhặt về như một thứ đồ rơi, như một vật thể người ta vứt bỏ mà mình còn tận dụng . Vợ nhặt còn có thể hiểu đó là người vợ không ra gì, giá trị của cô ta chỉ ngang bằng với những gì của một đồ vật “ xí được” . Không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân để cho cô vợ nhặt ấy đi hết tác phẩm vẫn không có một cái tên, Kim Lân đã cắt nghĩa “ Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói 1945 người dân lao động thường dường như khó ai thoat khỏi cái chết . Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Tuy hoàn cảnh ấy giá trị của một con người thật vô cùng rẻ rúng . Người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ - Đúng là nhặt được vợ như tôi đã nói trong truyện”. Như vậy , cái thiêng liêng là “ vợ” đã trở thành cái rẻ rúng ( nhặt) . Cái tên vợ nhặt đã cung cấp cho người đọc theo dõi một tình huống độc đáo.

b) Nhân vật Tràng và người 
vợ nhặt


Khi đến bước đường cùng người ta thường liều lĩnh. Tràng đùa nhưng cô gái sắp chết đói thì làm thật. Cô xin ăn và theo không anh về nhà là hành động liều.
 

Cũng liều nhắm mắt đưa chân.
Mà xem con Tạo xoay vần ra sao
 

Dù sao, thì Tràng cũng là người vui tính xởi lởi. Anh là niềm vui của bọn trẻ con xóm ngụ cư , cứ mỗi lúc cái anh chàng vừa thô, vừa xấu vừa dở hơi về làng là bọn trẻ con cứ đu lấy anh mà trêu chọc cười đùa. Khi nhận cô gái về làm vợ, Tràng thấy “ chợn” nhưng rồi anh cũng chậc lưỡi đánh liều. Hai cái liều gặp nhau để định hướng vấn đề rất nghiêm túc. Đó là chuyện lập gia đình, đó là cơ hội duy nhất để Tràng vứt bỏ cái dở hơi của mình. Đúng như bà cụ Tứ nghĩ “ Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có vợ được”. 
Nhân vật Tràng trên đường đưa vợ về nhà thấy mọi người nhìn ngó đã lấy đó làm niềm tự hào “ Cái mặt cứ vênh lên tự đắc” với mình niềm vui lấn át nỗi lo. Anh không hiểu nổi tại sao vợ lại buồn , mẹ lại khóc , “ Chán quá chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”. Tràng bỗng nhiên nhặt được vợ , hạnh phúc của Tràng quá lớn và quá đột ngột mãi đến sáng hôm sau Tràng vẫn thấy “ Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui ấy, Tràng ý thức rõ rệt hơn về trách nhiệm với tổ ấm gia đình . Anh yêu thương, anh muốn gắn bó với mẹ mình, với vợ mình, với cái nhà, cái sân mảnh vườn của mình “Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng bây giờ hắn mới thấy hắn lên người”, hi vọng đã nhen lên. Ở phần cuối tác phẩm Tràng đã nhớ ra “ Cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp “ để phá kho thóc của Nhật” Tràng tự dưng thấy ân hận , tiếc rẻ vẩn vơ khó hiểu, khi nghĩ đến chiếc xe thóc mà mình vẫn đẩy lên làm công cho Liên Đoàn. Biến cố Cách mạng tháng Tám đang đến gần, lá cờ đỏ sao vàng đang phấp phới bay trong óc Tràng sẽ cho hai cái liều của vợ chồng Tràng thoát hiểm, có hi vọng, có tương lai.

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ mà tràng nhặt được. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng phó thác cả đời mình cho người đàn ông mà mình yêu kính. Thế mà cô vợ của Tràng hoàn toàn đi theo tiếng gọi của cái ăn, không phải đáp ứng nhu cầu của trái tim mà là phải giải quyết quyền lợi của bao tử. Người phụ nữ này không biết Tràng xấu tốt thế nào, chỉ một câu hò bâng quơ và mấy chiếc bánh đúc riêu cua là cô nàng theo không về nhà. Người đọc cảm thấy ghê sợ đến tởm lợm một nhân cách mà là nhân cách phụ nữ: cái ăn đã hạ thấp nhân phẩm; cái ăn khiến cho ta thấy cái nhục kèm theo, cái ăn đã tước đoạt luôn giới tính ngàn đời phụ nữ Việt Nam. Người đàn bà trơ tráo , nhâng nháo không biết đến sĩ diện chút nào!. Sự xấu hổ và ý thức tự trọng đã không còn chút mảy may trong tính cách của người đàn bà nhặt được này. Hoàn toàn có thể hiểu được , khi người ta tự coi mình là cái rơm cái rác mà ai cũng có thể nhặt đầu đường xó chợ. Tuy nhiên trên con đường đi về nhà chồng người 
vợ nhặt đã lầm lũi lấy nón che mặt như sợ người ta phát hiện mình là một kẻ tội phạm. Cái hành động chào đến ba lần người mẹ của Tràng cụ mới nghe được cùng với cái chi tiết lặng im “ mân mê tà áo đã rách bợt” cho thấy ý thức về bổn phận, ý thức mình là dâu, là vợ đã trở về với cô gái mà mới đây thôi “ đanh đá, ngoa ngoắt chỏng lỏn”. Chính cái việc phục hồi lại nhân phẩm cho mình và những hành động dọn dẹp nhà cửa của người vợ nhặt đã nhen lên một niềm hi vọng, gia đình Tràng có thể hạnh phúc nếu cái đói không cướp đi sinh mạng của họ. 

c) Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ khi đón nhận nàng dâu
 

- Quá trình tâm lí ở bà cụ Tứ có phần phức tạp hơn 
nhân vật Tràng. Nếu nhân vật Tràng đang say trong niềm vui của một chàng rể tràn trề hạnh phúc ,tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng thì ở mẹ Tràng tâm lí có kiểu gấp khúc bởi người mẹ này cả cuộc đời đã đổ nhiều nước mắt, đã có nhiều nghiệm sinh. Vì thế, trong chiều sâu của người từng trải và nhân hậu này có bao nhiêu niềm trắc ẩn.

Trước hết là bà cụ rất ngỡ ngàng. Người con trai của bà ngỡ ngàng về một cái đã biết, còn bà cụ thì ngỡ ngàng trước một cái điều dường như không sao hiểu nổi. Đột nhiên có một cô gái xuất hiện trong túp lều của mình, bà cụ Tứ có hàng loạt các câu hỏi thắc mắc.
 

“ Quái sao lại có người đàn bà nào trong ấy nhỉ? Người đàn bà này lại đứng ngay đầu giường của con trai mình thế kia” và thật lạ kì sao lại chào mình bằng u, “ ai thế nhỉ” thậm chí càng nghi vấn bà càng bối rối ngỡ ngàng “ Ô hay thế là thế nào nhỉ?”. Đối với một người mẹ rất nhân hậu, dành tất cả đời mình lo cho con, dĩ nhiên trong trường hợp này sẽ rất nhạy cảm , có thể bà mẹ sẽ ngạc nhiên nhưng rồi sẽ định thần ngay không hiểu ra làm sao nữa. Hoàn toàn 
Kim Lân không có ý thức “ kịch hóa” để tạo cái chi tiết này. Đây chính là một nỗi đau thăm thẳm nó xuất phát từ một cái hiện thực: Chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đáng lẽ rất dễ dàng nhận biết đó. Sau sự ngỡ ngàng nhân vật Tràng đi thẳng tới cái hạnh phúc của mình, bà mẹ thì dích dắc hơn, sau khi “ hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số phận đứa con mình” bà lão “ cúi đầu im lặng”. Đó là nỗi xót xa lo thương lẫn lộn , tình thương của người mẹ nhân hậu ấy mới bao dung làm sao, một câu hỏi nữa được đặt ra chứa đựng nỗi lo âu “ Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau , sống qua được cơn đói khát này không”. Vậy là người mẹ không chỉ chấp nhận cái hành động anh con trai mà đã mở tấm lòng người mẹ, đã chấp nhận người con dâu. Cụ Tứ sử dụng từ “ chúng nó” hết sức bình dị trong ngôn ngữ người bình dân nhưng Kim Lân đã cho ta thấy sau giây phút im lặng cúi đầu ấy đã nói ra cái điều không phải là không trăn trở. Bởi cái cúi đầu ấy bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng cái kinh nghiệm sống, bằng cái sự trả giá cho chuỗi đời nặng nhọc và bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh của nạn đói. Từ tình thương bà cụ Tứ đã chuyển sang nỗi lo để tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà không nghĩ đến mình, không nghĩ đến cái việc có nàng dâu được lợi gì, mà chủ yếu dòng ý nghĩ này của người mẹ là quan tâm tới bổn phận làm mẹ chưa tròn của mình. Bà lão nghĩ đến ông lão, đến con gái út, đến nỗi khổ đời mình và nghĩ đến tương lai của con, tâm trạng rất phức tạp vừa đầy lo âu buồn tủi lại vừa sung sướng tự động viên mình, coi con dâu như một ân nhân của mình đã làm cho bổn phận người mẹ được hoàn thành “ người ta gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ”. Thôi bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo lắng gì được cho con, nghĩ vậy nên cuối cùng dồn tụ trong bao nhiêu lo lắng yêu thương ở câu nói giản dị “ chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Như vậy , trên những bề bộn ngổn ngang buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn ánh lên, và tỏa hơi ấm kì diệu từ …nồi cháo cám. Nỗi hân hoan của mẹ được thốt lên như tiếng reo hạnh phúc của đứa trẻ, “ chè đây – bà lão múc ra một bát – chè khoán đây ngon đáo để”. Rõ ràng, bà lão rất tin cái nồi cháo cám này là ngon. Chúng ta cần cảm nhận tiếng “ ngon” này trong ý nghĩa về tinh thần hơn là về vật chất . Bà mẹ rất tin vào hạnh phúc của con nên cái đắng chát của nồi cháo cám đã trở thành cáu ngọt ngào của hạnh phúc, của tinh thần. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cái chất người: Trong bất kì hoàn cảnh nào tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người vẫn muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện cách sống tình nghĩa và hi vọng. Tuy nhiên Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của bà cụ Tứ vẫn là một niềm vui tội nghiệp bởi hiện tại vẫn là nghiệt ngã: Nồi cháo cám vẫn “ đắng chát” và “nghẹn bử”. Như vậy trong tình huống của câu chuyện nhặt vợ đã có ba nhân vật liên đới. Cả ba đều bị hung thần Đói đe dọa, khi cả ba sống rời rạc như những hình nhân dật dờ không có cơ hội để nhen lên những đốm sáng của chất người, tình người. Thế nhưng khi cả ba chụm lại , thì nó đã nên hòn núi cao của tình người. Giữa cái đói , nhặt vợ về để mưu cầu hạnh phúc,cả ba con người hồi sinh để làm người , chính là tình huống đặc biệt để làm sáng ngời tinh thần nhân đạo. cái vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ, cái thế vượt hoàn cảnh ấy chính là nội dung nhân đạo độc đáo rất cảm động.Nó đem đến cho người đọc nhiều suy nghĩ. 

3. Kết luận
 

Rất nhiều các nhà văn lớn đã viết về bài ca của con người, nhưng bài ca lớn nhất , âm vang nhất vẫn là sức mạnh tinh thần có thể giúp con người phá vỡ hoàn cảnh bế tắc để thoát hiểm, để hi vọng và để xứng đáng với danh dự làm người. 
Kim Lân đã góp thêm cho bài ca ấy, bài ca con người, một điệu nhạc buồn nhưng trong những dòng nước mắt lặng lẽ, trong cái u ám tối trời, tối đất của nan đói vẫn ánh lên những đốm lửa của hi vọng, của tương lai. Không hiểu sao gấp trang sách lại , toi thấy cái logic của dòng nước mắt, của hành động thắp đèn trong đêm tân hôn, của lá cờ đỏ phấp phới trong óc Tràng và tôi tin, gia đình người nông dân xóm ngụ cư này sẽ vượt qua cái thời tao loạn của nạn đói khủng khiếp này. Họ sẽ hạnh phúc bởi vì chỉ cần một bước nữa thôi Cách mạng tháng Tám 1945 sẽ thành công…

(Sưu tầm)
Bài viết liên quan
+++++++++++