Jul 6, 2012

Phân tích bài thơ "Đàn ghita của Lorca" của Thanh Thảo



PHÂN TÍCH BÀI THƠ "ĐÀN GHI TA CỦA LORCA" CỦA THANH THẢO


Từ xửa xưa, song song với định đề "thi trung hữu họa", bao giờ cũng là "thi trung hữu nhạc". Định đề ấy bảo rằng cùng với hoạ, nhạc là một yếu tính của thơ. Chừng nào còn thơ, chừng ấy thơ còn nhạc. Quả có vậy, nhạc là phần tinh chất của cảm xúc thơ đã được điệu thức hoá. Ngân nga cả bên trong cả bên ngoài mỗi tiếng thơ, nhạc đã thực sự là phần hồn của thơ. Nó là hơi thở của ngôn từ thơ. Tất nhiên, đây là nói nhạc của ngôn ngữ. Thơ đã phát huy bao hiệu quả phong phú của ngôn ngữ để cất lên tiếng nói riêng của mình. 

Xem thêm bài khác

Từ xửa xưa, song song với định đề "thi trung hữu họa", bao giờ cũng là "thi trung hữu nhạc". Định đề ấy bảo rằng cùng với hoạ, nhạc là một yếu tính của thơ. Chừng nào còn thơ, chừng ấy thơ còn nhạc. Quả có vậy, nhạc là phần tinh chất của cảm xúc thơ đã được điệu thức hoá. Ngân nga cả bên trong cả bên ngoài mỗi tiếng thơ, nhạc đã thực sự là phần hồn của thơ. Nó là hơi thở của ngôn từ thơ. Tất nhiên, đây là nói nhạc của ngôn ngữ. Thơ đã phát huy bao hiệu quả phong phú của ngôn ngữ để cất lên tiếng nói riêng của mình. 

Không chỉ vậy, để làm giàu cho mình, thơ còn khai thác cả ngôn ngữ của nhạc nữa. Bao đời nay, đã có biết bao yếu tố nhạc từ vương quốc âm nhạc đã vượt biên, rồi nhập tịch vào thơ, ban đầu, tạm trú, về sau, thường trú. Thậm chí, nhờ sự cưu mang quá sâu nặng của thơ, trải đời này đời khác, mà nhiều thứ đã được... đồng hoá luôn. Dân ngụ cư đã biến thành dân sở tại. Gốc gác âm nhạc của chúng, đôi khi, chỉ còn là kí ức xa xăm. Đó phải chăng cũng là một kiểu hoà nhập tiếp biến ?

Là một tay bút ham cách tân, Thanh Thảo cũng đã tạt sang âm nhạc vay mượn không ít vốn liếng đem về đầu tư cho thơ mình. Để làm các trường ca Những người đi tới biển, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng nổ của mùa xuân, Đêm trên cát..., anh đã mướn cấu trúc của những bản giao hưởng và xônát. Khiến cho các thi phẩm ấy có cái dáng là lạ như một thứ trường-ca- giao-hưởng. Còn để viết thơ ngắn, lắm khi anh lại giật tạm cấu trúc của ca khúc. Có lúc thì đem về lai ghép để tạo ra một diện mạo mới. Cũng có lúc lại làm theo kiểu biến đổi gen mà tạo ra giống mới. Nhiều bài thơ ngắn được anh tổ chức khá ngon lành theo thể thức của bài hát. Dáng của chúng nhang nhác như những ca-khúc-thơ. Mà cũng không chỉ vay cấu trúc thuộc văn bản khúc ca, anh còn mượn cả lối diễn tấu ca khúc để làm giàu cho hình thức thơ nữa. Đàn ghi-ta của Lorca là một "ca" như thế chăng ? 



Đàn ghita của Lorca

"Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta"
F.G.Lorca


*****

Những tiếng đàn bọt nư­ớc

Tây-ban-nha áo choàng đỏ gắt

li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn


Tây-ban-nha

hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lorca bị điệu về bãi bắn

chàng đi như­ ngư­ời mộng du



tiếng ghi -ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi -ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi -ta tròn bọt nư­ớc vỡ tan

tiếng ghi -ta ròng ròng

máu chảy



không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như­ cỏ mọc hoang

giọt nư­ớc mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng


đư­ờng chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng

Lorca bơi sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc


chàng ném lá bùa cô gái di -gan

vào xoáy n­ước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt


li -la li -la li -la...

(Rút từ tập Khối vuông Rubíc, NXB Tác phẩm mới, 1985)


Nòi nghệ sĩ vốn dễ đồng bệnh tương lân. Do đồng bệnh mà đồng điệu. Cho nên, có một cách để hiểu một kẻ viết : cứ xem anh viết về ai, có thể biết anh là ai. Trong các thi sĩ nội, Thanh Thảo mê nhất Nguyễn Đình Chiểu, Cao Bá Quát, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Văn Cao, Đặng Đình Hưng... Còn những thi sĩ ngoại, thấy anh viết đậm về Aragông, Êxênhin, Maicôpxki, Pasternac, Lorca... Về từng vị đều có những kí thác, những đồng điệu riêng. Nhưng, trong số những tay bút Tây phương anh ngưỡng mộ, thì trường hợp về Lorca, xem ra, thành công hơn cả. Là một nhà thơ lớn của Tây Ban Nha hiện đại, Lorca đã đem được chất dân gian Anđaluxia cùng sức sống của xứ sở bò tót vào thơ mình. Lại thạo dân nhạc, ông thường thích đi khắp xứ như một gã Digan đơn độc mà hát lên những bài thơ của mình như những khúc romance, ballad. Bởi vậy, Lorca như một nghệ sĩ kép : thi si kiêm nhạc sĩ. Cũng bởi vậy nhiều bài thơ Lorca thường sống cuộc đời kép : thi phẩm và nhạc phẩm (1). Có người sẽ nghĩ : thơ về một nghệ sĩ độc đáo như thế, nếu có được một hình thức kép nữa thì thật là tam hợp ! Nhưng, tam hợp lại dễ sinh tam tai. Thanh Thảo không dại thế. Vả, làm thế cũng đâu ra võ của anh. Không thuộc kiểu thi sĩ mớm thơ cho nhạc, càng không phải một tay vãi nhạc vào thơ. Anh vẫn đi lại với nhạc, nhưng theo chiêu riêng : vừa nhập cấu trúc ca khúc vào lòng bài thơ vừa khảm thêm tiếng nhạc vào lời thơ. Nên, dù dan díu với nhạc, trước sau thơ anh vẫn luôn là thơ. Ngoài vốn thi liệu được tái chế, tái tạo từ di sản thơ của chính Lorca, thì ngôn ngữ của nhạc, cấu trúc của ca khúc sẽ bắc những nhịp cầu tương giao để hồn kẻ hậu sinh nói lời đồng điệu với bậc tiền nhân của xứ sở Tây ban cầm. Ngón ấy chẳng tương thích sao ? Đàn ghi-ta của Lorca chính là một lối thơ mà ở đó lời thơ đã cườm vào nét nhạc, hình tượng thơ đã cùng cấu trúc nhạc bay đôi. Thậm chí, để tiếng nói của thơ mình thêm phong phú, Thanh Thảo còn mô phỏng những âm thanh từa tựa các nốt đàn ghita, mô phỏng cả lối diễn tấu vẫn thường đệm cho người hát khi diễnnữa. 

*

Thanh Thảo đã chọn thời điểm bi phẫn nhất của cuộc đời Lorka cho cảm hứng của thi phẩm : lúc ông bị bắn chết. Lorca luôn dự cảm và bị ám ảnh khôn nguôi bởi cái chết. Nhưng ông cũng không thể ngờ cái chết phũ phàng nhất đã ập xuống thân phận mình. Đối với lòng tiếc thương, mọi cái chết đều ngang trái. Cái chết của Lorca càng ngang trái bội phần. Vì ông bị phatxit giết hại khi mới 37 tuổi, xác ông còn bị chúng quẳng xuống một cái giếng để phi tang. Mất mát kinh hoàng là thế, nhưng oái oăm thay, cái chết còn là một giải thoát. Giải thoát bất đắc dĩ nhưng hoàn toàn. Hẳn suy tư Thanh Thảo đã bị vây ám giữa những phản trái kia của cái chết. Nhất là lúc anh đọc được cái câu như một lời nguyện cuối, một di chúc viết sớm của Lorca : Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta. Và thế là thi phẩm đã tự chọn cho nó một hình hài : vừa là thơ viếng vừa như một bi ca. 


Có một cách mà từ xưa người ta đã dùng đến "mệt mỏi", trong những trường hợp thế này, là : lấy tên các tác phẩm của người ấy hay lời văn trong đó đem ghép lại với nhau cho chúng tạo ra một nội dung nào đó(2). Thanh Thảo chọn cách khác. Thi liệu anh viết về Lorca toàn là những thi ảnh rất ám trong thế giới nghệ thuật của chính Lorca, mà sau những lãng quên chúng vẫn không thôi đeo bám Thanh Thảo : đàn ghi-ta, bài ca mộng du, con ngựa đen, vầng trăng đỏ, chàng kĩ sĩ đơn độc, áo choàng đấu sĩ, sắc máu đấu trường, cô gái Di gan, lá bùa hộ mệnh, hoa tử đinh hương... Và, tất nhiên, làm sao có thể thiếu được dòng sông cùng với cỏ mọc hoang vốn là những hình ảnh - biểu tượng từ lâu vẫn miên man với ngòi thơ Thanh Thảo ! Cảm hứng vụt dậy thì liền gọi luôn những đạo quân ấy về cho cùng đầu quân (đầu thai thì đúng hơn) vào thi phẩm này. Nhờ đó, hình tượng Lorca và suy cảm Thanh Thảo đã nói chung một thứ tiếng là dòng thi liệu đã trộn vào nhau đó. Thì tương giao, tâm giao cũng còn là thế chứ sao ? 

Trong xử lý thi liệu, Thanh Thảo có dùng những lối kết hợp khá phổ biến ở thơ tượng trưng. Ta gặp những Tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi-ta lá xanh, tiếng ghi-ta tròn, tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy, về miền đơn độc, vầng trăng chếnh choáng, chôn cất tiếng đàn, đường chỉ tay, dòng sông rộng... Nhiều thi ảnh được tượng trưng hoá, khiến chúng có dạng một hình thể chứa nhiều hình ảnh. Đường chỉ tay là hiện thân của thiên mệnh. Đường chỉ tay đã đứt tượng trưng cho cú giáng phũ phàng trái ngang của số mệnh. Chiếc ghi-ta tượng trưng cho âm nhạc và thơ ca. Nó là cây đàn lia của chàng nghệ sĩ tài hoa. Chiếc ghita màu bạc là biến ảnh của chiếc ghi-ta nâu khi đã sang cõi khác. Đúng hơn, là chiếc ghi-ta đã hoá, giờ sang cõi siêu sinh. Thi sĩ bơi trên chiếc ghi-ta chính là bơi trên con thuyền của thi ca đang vượt qua bến bờ sinh tử. Lá bùa cô gái di-gan là cái đẹp huyền bí. Xoáy nước là tai hoạ định mệnh trên dòng sông của số phận, cũng là cái dòng sông ranh giới giữa cõi sống và cõi chết, giữa thực tại và hư vô. Hành động ném lá bùa và ném trái tim đều giàu hàm ý tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát của Lorca... Lối viết này không còn xa lạ đối với người đọc thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên hay nhóm Xuân Thu nhã tập hồi Thơ Mới. Nhưng, nó đã được Thanh Thảo dùng nhuần nhị và ăn nhập để tạo ra cho thơ mình một cách nói hàm súc. Riêng cái câu giọt nư­ớc mắt vầng trăng trong đoạn bày tỏ nỗi đau xót và tiếc thương trước cái chết hết sức thương tâm của Lorca mà lời thơ kết hợp cả trượng trưng thơ Đường với tượng trưng Thơ Mới : 

không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như­ cỏ mọc hoang

giọt nư­ớc mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng


cũng thấy được vẻ súc tích của nó. Có phải câu ấy được viết theo lối "nghệ thuật sắp đặt" không, mà cứ đơn giản y như đặt hai hình ảnh bên nhau : giọt nước mắt - vầng trăng thế thôi ? Giữa chúng chẳng có một quan hệ từ nào. Thì ra, lắm khi, việc tước bỏ quan hệ từ lại là cách gia tăng nghĩa cho hình ảnh và lời thơ. Vì giờ đây, giữa chúng lại có thể phát sinh nhiều kiểu quan hệ, tạo ra nhiều làn nghĩa : 1) quan hệ đẳng lập : giọt nước mắt (và) vầng trăng ; 2) quan hệ song song : giọt nước mắt (với) vầng trăng ; 3) quan hệ so sánh : giọt nước mắt (như) vầng trăng ; 4) quan hệ sở hữu : giọt nước mắt (của) vầng trăng ; 5) quan hệ đồng nhất : giọt nước mắt (là) vầng trăng... Người đọc có một thoáng phân vân : vậy ý thực của câu thơ sẽ theo nghĩa nào ? Nhưng thoáng ấy sẽ qua nhanh bởi chỉ có câu trả lời duy nhất : nó phải là sự giao thoa và lung linh của tất cả các làn nghĩa ấy. Chẳng thế sao, trong mạch cảm xúc, trong hình tượng chủ đạo cũng như cấu tứ, các làn nghĩa kia đâu có loại trừ nhau. Trái lại, chúng làm giàu và làm đẹp cho nhau cả thôi. Vậy chả súc tích sao ?

Còn mạch triển khai của thi phẩm lại là hợp lưu của cả hai dòng tự sự và nhạc. Việc tái hiện sự kiện Lorca bị hành hình với những diễn biến phũ phàng, dù chỉ là chấm phá, cũng đã ít nhiều đem lại một cái "cốt" cho thi phẩm. Muốn kể, thì cũng kể được đôi chút. Tâm tư người đọc bị cuốn ngay vào mạch kể qua các diễn biến ấy với những kinh hoàng, đau đớn và tiếc thương cho một con người vô tội, một bậc tài hoa oan khuất. Nhưng, dường như cái mạch kia còn tuân theo các bước phát triển thuộc về cấu trúc của một ca khúc nữa. Sự kiện Lorca bị hành hình vào bài thơ này đã dàn thành bốn phần nội dung với những khúc có dụng ý hẳn hoi về độ dài và tiết nhịp. Đầu tiên, phần giới thiệu, là hình ảnh Lorca theo lối ấn tượng : 

những tiếng đàn bọt nư­ớc / Tây - ban - nha áo choàng đỏ gắt / li-la li-la li-la / đi lang thang về miền đơn độc / với vầng trăng chếnh choáng / trên yên ngựa mỏi mòn

Tiếp nối, phần phát triển, Lorca bị giết : 

Tây - ban - nha / hát nghêu ngao / bỗng kinh hoàng / áo choàng bê bết đỏ / Lorca bị điệu về bãi bắn / chàng đi như­ ngư­ời mộng du

Kế đó, phần cao trào, là nỗi tiếc thương trước sự thực phũ phàng : 

tiếng ghi-ta nâu / bầu trời cô gái ấy / tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy / tiếng ghi-ta tròn bọt nư­ớc vỡ tan / tiếng ghi-ta ròng ròng / máu chảy // không ai chôn cất tiếng đàn / tiếng đàn như­ cỏ mọc hoang / giọt nư­ớc mắt vầng trăng / long lanh trong đáy giếng

Và cuối cùng, phần kết, với hình ảnh Lorca lìa bỏ tất cả và giải thoát : 

đư­ờng chỉ tay đã đứt / dòng sông rộng vô cùng / Lorca bơi sang ngang / trên chiếc ghi-ta màu bạc // chàng ném lá bùa cô gái di-gan / vào xoáy n­ước / chàng ném trái tim mình / vào lặng yên bất chợt / li-la li-la li-la... 

Tất nhiên, trước sau, đây vẫn là sản phẩm thơ chứ không phải là một sản phẩm nhạc. Nên các bước của cấu trúc này không thể "cóp" y sì theo lối "một ăn một" với những bước chuyển gam như trong một nhạc phẩm thực sự được. Mà làm cách ấy đối với thơ, chắc gì tránh khỏi sống sượng? Chiêu thức nhuần nhuyễn nhất, có lẽ là thế : nhập cấu trúc ca khúc vào với cốt tự sự để chúng đồng thể với nhau.

Nếu chỉ dừng lại ở đó không thôi thì sắc thái ca khúc trong việc tổ chức mạch thơ hãy còn mơ hồ, chưa thuyết phục.

Thú vị và bất ngờ nhất là việc khảm vào mạch ấy những âm thanh như cách diễn tấu của nhạc công khi đệm cho người hát một ca khúc. Sự có mặt của hai chuỗi li-la li-la li-la ở phần đầu và phần kết là thế. Thú thực, khi mới đọc bài thơ này trong tập Khối vuông Rubic, tôi thấy cái chuỗi kia là một nét lạ, nhưng nhác nghĩ : lại một trò "tân hình thức" đây. Cha Thanh Thảo này cũng bày đặt gớm. Nhưng đọc kĩ hơn thì thấy hình như có một nghĩa lý nào đó hay hay, chứ không hẳn chỉ là những con âm rỗng nghĩa. Nhưng thực hư ra sao, thì cứ tù mà tù mù. Mãi sau, đọc kĩ hơn vào cấu trúc mới vỡ lẽ : té ra đây lại là sự giao duyên kì thú của thơ và nhạc. Cụ thể là giao thoa giữa thanh âm và thi ảnh. Mở đầu là hai câu : 

Những tiếng đàn bọt nước / Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt. 

Thanh Thảo chọn hai hình ảnh này khởi đầu một thi phẩm giống như kiểu tạo những âm chủ cho một nhạc phẩm. Chúng là những tương phản kín đáo mà gay gắt : âm thanh hồn nhiên - sắc màu chói gắt, tiếng đàn thảo dân - áo choàng đấu sĩ, vẻ khiêm nhường - sự ngạo nghễ, niềm hân hoan - nỗi kinh hoàng, nghệ thuật - bạo lực, thân phận bọt bèo - thực tại tàn khốc... Cặp hình ảnh cứ ngỡ tương phùng nào ngờ lại tương tranh. Nội dung chủ đạo mà thi phẩm triển khai sẽ là phận người trong một hiện thực đầy tranh chấp đối chọi như thế. Rồi ngay sau hai câu mào đầu đó là chuỗi âm thanh li-la li-la li-la. Nó như một chuỗi nốt đàn buông do người đệm đàn (ghi ta) lướt qua hàng dây để kết thúc phần dạo, đánh dấu khoảng ngắt cho người hát chính thức bắt lời trình diễn ca khúc. Và thi phẩm cũng kết thúc bằng sự trở lại của chuỗi âm thanh ấy. Nó tựa những tiếng đàn đệm cuối cùng nhằm tạo những dư âm sau khi lời hát đã ngừng. Đấy chẳng phải là một lối phối âm quen thuộc trong diễn tấu ca khúc sao ? Mà cũng có thể hình dung nó như tiếng huýt sáo ngẫu hứng của người ca sĩ trên nền nhạc khi diễn tấu. Ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Khi âm thanh gây niềm xao xuyến thì tự nó cũng chất chứa thi vị chứ sao ! 

Song, nếu chỉ có thế, thì việc phỏng âm nhạc ấy bất quá, cũng chưa đi xa hơn bao nhiêu một trò trang sức hoa mĩ. Về nghĩa, lila lại chính là một loài hoa có màu tím ngát rất được người phương Tây ưa chuộng : hoa lila - tức hoa tử đinh hương. Chuỗi âm thanh kế tiếp gợi hình ảnh những tràng hoa chuỗi hoa bật tím liên tiếp. Đó là những đoá hoa người đời, người thơ thầm kính viếng hương hồn Lorca hay chính là ngàn muôn đoá hoa của sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của nhà thi sĩ, thể hiện sức sống bất diệt của những giá trị chân chính trên cõi đời này ? Có thể là thế này, có thể là thế kia, mà có lẽ là cả hai. Vì thế, chính cái chuỗi âm thanh ngỡ không đâu ấy lại chứa đựng rất nhiều cảm thương, niềm tin và lòng ngưỡng mộ sâu kín của người viết. Thiếu ý nghĩa của một thi ảnh, chuỗi li la kia khó vượt qua một trò diễn âm thanh cầu kì.


Mỗi nghệ phẩm là một sản phẩm không lặp lại. Không chỉ nội dung, mà ngay cả hình thức. Năng lượng sáng tạo có thể tích tụ lâu dài trong cả ý thức và tiềm thức, bằng cả vốn sống, vốn văn hoá cùng kinh nghiệm nghệ thuật. Nhưng nó chỉ xuất ra có một lần. Mỗi bài thơ là một lần loé sáng, một tia lửa không lặp lại. Tôi ngờ, bản thân người viết cũng chẳng bao giờ kiểm soát hết được những gì loé lên trong tia lửa ấy. Sáng tạo nghệ thuật là thế ; phải thế mới là nghệ thuật. Thanh Thảo có thể sử dụng tiếp những chiêu y sì thế này để viết thi phẩm khác nữa không ? Nếu có, e rằng khó tránh khỏi hậu quả của nhân bản vô tính về hình thức. Là người ham tìm tòi cách tân, Thanh Thảo hiểu rõ điều đó. "Với những bài thơ hay - anh viết, thi sĩ sáng tạo với toàn bộ thể chất và tâm linh mình, và không biết cái nào bắt đầu trước : thể xác hay tâm linh ? đó là những bài thơ ngư­ời ta chỉ phóng ra có một lần, xuất ra có một lần, rồi ngắt. Phần tích điện, phần thu góp là cả một quá trình nhưng sáng tạo là khoảnh khắc. Khoảnh khắc ấy xảy ra càng đột ngột bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu".Và anh cũng tâm niệm : "Những ngư­ời tìm đến sự hoàn mĩ của hình thức nghệ thuật thường dễ gặp nhau. Mà trong nghệ thuật, trong thơ, hình thức là gì ? Hình thức chính là sự hiện diện nghệ thuật riêng của từng nghệ sĩ. Không có cái hình thức đó thì cũng chẳng bao giờ có nghệ
thuật. (3) Tôi nghĩ, với thi phẩm nàychẳng hạn, anh đã có được điều đó. 
Sưu tầm

Tìm hiểu bài thơ "Đàn ghita của Lor-ca" (Thanh Thảo)


ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA
Thanh Thảo


Xem thêm bài khác

MỤC TIÊU BÀI HỌC
- Hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp bi tráng của hình tượng Lor-ca qua mạch cảm xúc và suy tư đa chiều vừa sâu sắc vừa mãnh liệt của tác giả bài thơ
- Thấy được vẻ đẹp độc đáo trong hình thức thơ mang đậm phong cách tượng trưng và có trí thức đọc hiểu bài thơ viết theo phong cách hiện đại.

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả 


Thanh Thảo tên khai sinh là Hồ Thành Công, sinh năm 1946. Quê xã Đức Tân, Huyện Mộ Đức, tỉnh Quãng Ngãi. Tốt nghiệp khoa văn trường đại học Tổng hợp HN. Tham gia trực tiếp chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Từ sau năm 1975, Thanh Thảo hoạt động văn nghệ và báo chí. Ông là phó chủ tịch Hội đồng thơ Hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Quãng Ngãi.

Tác phẩm chính: Những người đi tới biển (1977 - trường ca). Dấu chân qua Trảng cỏ (1978 - thơ), Khối vuôn ru bích (1985 - thơ), Từ một đến một trăm (1988 - thơ), Những ngọn sóng mặt trời (2002 – trường ca).
Ông được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1979 cho tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ.

Thanh Thảo tiêu biểu cho gương mặt thơ trẻ thời chống Mĩ và có nhiều nỗ lực đổi mới thơ Việt. Thơ Thanh Thảo viết về đề tài nào cũng đều đậm chất triểt lí. Mạch trữ tình trong thơ ông đều hướng tới những vẻ đẹp của nhân cách: nhân ái, bao dung, can đảm, trung thực và yêu tự do. Thơ ông dành mối quan tâm đặc biệt cho những con người sống có nghĩa khí như Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Ê-xê-nhin, Lor-ca 

2. Nghệ sĩ Phê-đờ-ri-cô Ghát-xi-a Lor-ca và bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca 

Lor-ca sinh năm 1898 ở tỉnh Gra-na-đa miền Nam Tây Ban Nha, được xem là nhà thơ lớn nhất TBN thế kỉ XX. Ngoài thơ, ông còn là tác giả của nhiều vở kịch nổi tiểng. Thơ của Lor-ca gắn bó máu thịt với nguồn mạch văn hoá dân gian, hồn nhiên, phóng khoáng. Nhân cách nghệ sĩ của ông thể hiện qua câu thơ nổi tiếng “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta” (ghi nhớ). Lor-ca bị phe phát xít phran-cô giết trong thời gian đầu cuộc nội chiến ở TBN. Xác ông bị chúng quăng xuống giếng. Thanh Thảo thực sự xúc động về Lor-ca nhất là cái chết của ông để viết bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca như một tuyên ngôn nghệ thuật của Lor-ca.

Cây đàn ghi ta
cất tiếng thở than
...
dưới năm đầu kiếm sắc

Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca 

- Bài thơ chia làm 3 phần

+ Phần 1: (6 dòng đầu) Lor-ca một nghệ sĩ tự do và cô đơn, một nghệ sĩ cách tân trong khung cảnh chính trị và nghệ thuật TBN.

+ Phần 2 (tiếp đó đến “không ai chôn cất tiếng đàn”): Một cái chết oan khuất gây ra bởi thế lực tàn ác.

+ Phần 3 (còn lại): Niềm xót thương Lor-ca những suy tư về cuộc giải thoát và giã từ của Lor-ca.

Chủ đề:

Bài thơ miêu tả Lor-ca, một nghệ sĩ tự do có tư tưởng cách tân về nghệ thuật, sống cô đơn trong khung cảnh chính trị TBN và cái chết oan khuất của ông do thế lực tàn ác gây ra. Đồng thời thể hiện niềm xót thương của tác giả và những suy tư về cuộc giải thoát và giã từ của Lor-ca.

II. Đọc hiểu văn bản
1. Người nghệ sĩ tự do Lor-ca

- Lor-ca được miêu tả trên cái nền rộng lớn của văn hoá TBN 

+ Áo choàng đỏ gắt: hình ảnh này nhắc tới môn đấu bò tót, một hoạt động văn hoá khiến TBN nổi tiếng toàn thế giới.

+ Vầng trăng

+ Yên ngựa

+ Cô gái Di-gan

+ Mô phỏng nốt nhạc ghi ta “li-la-li-la-li-la”

Tất cả làm nổi bật không gian văn hoá TBN. Hình tượng Lor-ca nổi bật trên nền văn hoá đó, làm rõ ca sĩ dân gian. Đó là một ca sĩ đơn độc lang thang “hát nghêu ngao” cùng “tiếng đàn bọt nước” cùng với “vầng trăng chếnh choáng/ trên yên ngựa mỏi mòn”

- Tấm “áo choàng đỏ gắt” giúp ta liên tưởng tới cảnh đấu trường. Đây không phải là trận đấu giữa bò tót và võ sĩ mà là đấu trường quyểt liệt giữa công dân Lor-ca cùng khát vọng dân chủ với nền chính trị độc tài, giữa nền nghệ thuật già nua của TBN với nghệ thuật cách tân của Lor-ca. Nhưng ở góc nhìn nào ta cũng thấy Lor-ca đơn độc. Chàng sống mộng du với bầu trời, đồng cỏ, dòng sông và lá bùa sinh mệnh trên đường chỉ tay.

- Ta bắt gặp sự đồng cảm sâu sắc giữa nhà thơ Thanh Thảo với đối tượng cảm xúc - người nghệ sĩ Lor-ca.

+ Tác giả tạo dựng không khí chính trị qua “TBN áo choàng đỏ gắt”

+ Cái phông của nền văn hoá dân gian TBN.

+ Bài thơ giàu tính nhạc qua biện pháp tu từ, từ láy

+ Mô phỏng âm thanh các nốt đàn ghi ta (li-la-li-la-li-la). Tất cả làm nổi lên hình tượng Lor-ca, nghệ sĩ hát rong, người đã dùng tiếng đàn ghi ta để giải bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương cảu nhân dân mình.

2. Cái chết oan khuất của Lor-ca

- Đấy là khi Lor-ca bọn phát xít Phrăng-cô giết, ném xác xuống giếng để phi tang.

- Để miêu tả sự việc bi phẫn này, Thanh Thảo sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật

+ Đối lập:

+) Tự do của người nghệ sĩ và thế lực tà n bạo của phát xít

+) Tiếng hát yêu đời, vô tư với hiện thực phũ phàng đến kinh hoàng (áo choàng bê bết đỏ)

+) Tình yêu cái đẹp với hành động tàn ác, dã man.
+ Nhân cách hoá: “Tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy” có sức ám ảnh

+ Hoán dụ:

+) Tiếng hát để chỉ Lor-ca 

+) Tấm “áo choàng bê bết đỏ”: chỉ cái chết

+ So sánh và chuyển đổi cảm giác:

* Tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh, tiếng ghi ta tròn. Mỗi so sánh này cũng làm nổi bật về tình yêu, cái đẹp, cái chết, nỗi đau trong tư tưởng, khát vọng, tình cảm của Lor-ca. Cái chết của người nghệ sĩ còn để lại nhiều suy nghĩ. Bọn phát xít không thể sống được trong bầu không khí dân chủ, khát vọng tự do. Chúng phải thủ tiêu Lor-ca. Cái chểt của Lor-ca gây lòng căm thù bọn phát xít và lòng thương cảm người nghệ sĩ dân gian.

3. Nỗi xót thương và suy tư về cuộc giã từ của Lor-ca 

- Nỗi niềm xót thương Lor-ca được chuyển hoá thành niềm tin bất tử của tiếng đàn Lor-ca 

Không ai chôn cất...
....cỏ mọc hoang

+ Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật của Lor-ca. Nó còn là tình yêu con người, khát vọng mà ông hằng theo đuổi. Đấy là cái đẹp mà mọi sự tàn ác không thể nào huỷ diệt được. Nó sẽ sống, lưu truyền mãi mãi như thứ cỏ dại “mọc hoang”.

+ Tiếng đàn còn có thể hiểu là nỗi xót thương của mọi người trước cái chết của một thiên tài. Đó là sự nuổi tiếc hành trình cách tân nghệ thuật dang dở của Lor-ca và cả nền văn chương TBN.

Thanh Thảo cảm thông đến tận cùng với Lor-ca. Nhà thơ tài hoa của đất nước TBN ấy đành chấp nhận số mệnh phủ phàng. Đường chỉ tay báo trước phận người ngắn ngủi. Dòng sông rộng mênh mang tượng trưng cho thế giới vô cùng. Con người ấy “ném là bùa vào xoáy nước” “ném trái tim” vào thế giới của sự im lặng (cõi chết) để “bơi sang ngang/trên chiếc ghi ta màu bạc”. Đấy có thể coi như một sự giải thoát.

- Sự giã từ cuộc đời cũng là cách giải thoát. Song tiếng đàn của Lor-ca, nghệ thuật của Lor-ca, tình yêu con người và khát vọng tự do ông hằng ôm ấp là cái đẹp mà sự tàn ác không thể huỷ diệt được

- Câu thơ “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn: Đây là thể hiện nhân cách nghệ sĩ của Lor-ca. Nó thể hiện tình yêu say đắm với nghệ thuật của Lor-ca. Đó là tình yêu tha thiết với đất nước TBN (Tây ban cầm). Nhưng Lor-ca đâu phải là người nghệ sĩ sinh ra để nói những điều đơn giản. ông muốn bộc lộ điều sâu sắc đến một ngày nào đó thi ca của mình sẽ án ngữ, ngăn cản những người đến sau trong sáng tạo nghệ thuật. Ông đã dặn cần phải biết chôn nghệ thuật của ông để đi tới. 

(Sưu tầm)

"ĐÀN GHITA CỦA LOR-CA"- Khúc tưởng mộ của Thanh Thảo dành cho Lor-ca - thiên tài nghệ thuật của Tây Ban Nha



"ĐÀN GHITA CỦA LOR-CA"- Khúc tưởng mộ
của Thanh Thảo dành cho Lor-ca -
thiên tài nghệ thuật của Tây Ban Nha


Thanh Thảo sinh năm 1946, quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông vào công tác ở chiến trường miền Nam thời chống Mỹ khốc liệt. Thanh Thảo được công chúng yêu văn học biết đến qua những tác phẩm mang diện mạo độc đáo viết về chiến tranh và thời hậu chiến như Những người đi tới biển (1977), Dấu chân qua trảng cỏ (1958), Khối vuông ru-bích (1985), Từ một đến một trăm (1988). 

Thanh Thảo được coi là một nhà thơ luôn có ý thức tìm tòi cách tân cho thơ Việt đương đại, với xu hướng đào sâu vào cái tôi nội cảm, vận dụng phần vô thức của nhà thơ để có thể thấu thị được bản chất sâu thẳm của các vấn đề xã hội và thời đại. Từ đó, nhà thơ thăng hoa thành những lời thơ có tính tượng trưng siêu thực, gợi ra những liên tưởng đa chiều, đa nghĩa ở bạn đọc qua một hệ thống thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" được ông viết ở trại sáng tác Quân khu Năm-Đà Nẵng năm 1979, được công chúng biết đến lần đầu vào năm 1985 khi tập thơ "Khối vuông ru-bích" ra đời. Có thể xem đây là một bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo.

Để hiểu bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca", trước hết ta phải hiểu về nhân vật Phi-đe-ri-co Gar-xi-a Lor-ca (1898-1936). Ông là một tài năng sáng chói của văn học Tây Ban Nha hiện đại, được xem là thần đồng có năng khiếu thiên bẩm về thơ ca, hội hoạ, âm nhạc, sân khấu, … Sau khi tốt nghiệp Đại học Luật năm 1919, Lor-ca lên thủ đô Madrit hoạt động nghệ thuật, trong bối cảnh đất nước Tây Ban Nha bị bao trùm bởi bầu không khí ngột ngạt của chế độ cai trị độc tài Pri-nô-đê Ri-vê-ra. Lor-ca nồng nhiệt cổ vũ nhân dân đấu tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng, vừa khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật. Vì thế, năm 1936, chế độ phản động thân phát xít đã thủ tiêu Lor-ca. Từ đó, tên tuổi Lor-ca đã trở thành một biểu tượng, một ngọn cờ tập hợp các nhà văn hoá Tây Ban Nha và thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hoá dân tộc và văn minh nhân loại.

Với nhà thơ Thanh Thảo, ông đã mang trong ba lô ra chiến trường những bài thơ của Lor-ca, qua bản dịch của Hoàng Hưng, chép trong sổ tay như ông tâm sự "Thực ra Lor-ca đã sống trong tôi từ những năm 1969-1970 qua bản dịch chép tay mà chúng tôi truyền cho nhau… Và tôi đã viết "Đàn ghi ta của Lor-ca" trong cái ngày rầu rầu của năm 1979 ấy. Bài thơ được viết rất nhanh và hầu như không sửa chữa gì thêm" (Văn học và tuổi trẻ, số tháng 3/2009). Thanh Thảo nói thêm: "tôi viết bài thơ trong trạng thái không nghĩ ngợi gì, một trạng thái mà vô thức chiếm lĩnh tôi trọn vẹn". Điều này chứng tỏ Lor-ca đã ám ảnh tâm thức của Thanh Thảo trong một thời gian dài, đến ngưỡng cảm hứng, thì tự nhiên bài thơ đã ngân vang như một khúc giao hưởng trầm buồn với phần đệm là những giọt âm thanh luyến láy thiết tha li-la li-la li-la ngân lên từ cây ghi ta cổ điển.

những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la

đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn

Mở đầu cho bài thơ của mình, Thanh Thảo giới thiệu với bạn đọc hình ảnh người nghệ sĩ Lor-ca qua những âm thanh, sắc màu, hình ảnh có tính tượng trưng, gợi liên tưởng đa chiều. Ấn tượng về những tiếng đàn bọt nước sao quá mỏng manh, như người nghệ sĩ Lor-ca chỉ với cây ghi ta và vần thơ mang theo khát vọng tự do dân chủ, một mình chiến đấu với bè lũ Phrăng-cô độc tài phát xít. Đây quả là một sự tương phản khắc nghiệt giữa "tiếng đàn bọt nước" với "áo choàng đỏ gắt", gợi ra khung cảnh một đấu trường giữa võ sĩ với bò tót. Nhưng đây không hề là cuộc đấu để khẳng định sức mạnh của cơ bắp, mà là một cuộc chiến đấu giữa khát vọng dân chủ của công dân Lor-ca với nền chính trị độc tài, của khát vọng cách tân nghệ thuật của chàng nghệ sĩ tâm huyết tài năng Lor-ca với nền nghệ thuật cằn cỗi già nua. Dù ở cương vị nào, chúng ta cũng nhận ra đây là cuộc đấu không cân sức, Lor-ca đang rất đơn độc trên hành trình lí tưởng gian nan, soi bóng lẻ loi giữa con đường đời đầy nguy hiểm mà chỉ có cây đàn, tiếng hát hộ thân.

Trong cuộc đấu khốc liệt này, Lor-ca luôn bị ám ảnh về cái chết, nhưng không ngờ nó lại đến với ông quá sớm, đến ở cái tuổi ba tám, tuổi con người đang vào độ phát tiết tinh hoa! "Con chim hoạ mi Tây Ban Nha" không còn lên tiếng hót. Thanh Thảo đã cất lên lời thơ đầy xót tiếc ngậm ngùi:

Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du

Lời thơ vang lên là một chuỗi tự sự, nhưng cấu trúc lại đứt đoạn như để nhằm diễn tả cuộc đời Lor-ca "nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương". Hình ảnh thơ tả thực "áo choàng bê bết đỏ" đã phản ánh hiện thực phũ phàng, tàn khốc đổ xuống đời Lor-ca. Cái chết bi thảm của Lor-ca là một sự kiện chính trị lớn ở Tây Ban Nha. Nó tạo ra một hiệu ứng dây chuyền, được Thanh Thảo diễn tả theo lối tượng trưng độc đáo:

tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy

Lời thơ mở ra nhiều chiều suy tưởng. Chính tác giả cũng băn khoăn tâm sự: "Tôi không hiểu mình tâm đắc cái gì nhất từ bài thơ này. Có thể là số phận bi thảm của Lor-ca nói riêng, của thơ ca nói chung chăng? Có thể là cái "tiếng đàn bọt nước" lúc hiện lúc tan như sự tự huỷ và tái sinh liên tục của thơ chăng? Hay là khát vọng tự do mà Lor-ca vĩ đại đã truyền cho tôi qua thi ca của ông" (Văn học và tuổi trẻ, số tháng 3/2009). Lời thơ của Thanh Thảo liên tục chuyển đổi cảm giác : từ tiếng ghi ta nâu vang lên âm thanh ám ảnh, như mang theo khát vọng tự do và tình yêu mà Lor-ca gởi trao đến mọi người, đến An-na Ma-ri-a -người yêu chung thuỷ. Lời thơ vang lên giai điệu ghi ta nâu vỡ ra, tan hoà thành sắc màu tượng trưng cho sự sống "tiếng ghi ta lá xanh biết mấy"; rồi đột ngột kết đọng thành những dòng máu thắm chảy ròng ròng của người nghệ sĩ Lor-ca hy sinh vì tự do và nghệ thuật.

Cái chết bi tráng của Lor-ca đã tạo ra một nỗi xót thương vô hạn đối với nhân dân Tây Ban Nha và nhân loại tiến bộ. Thanh Thảo cũng như bất cứ ai yêu mến nghệ thuật đều tiếc nuối khi những cách tân của Lor-ca đang còn dang dở:

không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng

Thanh Thảo đã lấy lời di chúc của Lor-ca "khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn" làm đề từ cho bài thơ của mình. Đây chính là di ngôn đầy tâm huyết của người nghệ sĩ chân chính. Lor-ca không muốn nghệ thuật của mình vì được công chúng yêu mến đưa lên đài danh dự, rồi vô tình sẽ trở thành một vật cản trên con đường sáng tạo không có giới hạn đối với thế hệ sau. Nam Cao cũng từng phát biểu rằng: "Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có" (Đời thừa).

Song ý thơ của Thanh Thảo vẫn gợi ra ở người đọc nỗi băn khoăn khi người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca mất đi, như dàn nghệ thuật Tây Ban Nha thiếu nhà nhạc trưởng tài hoa, bản giao hưởng sẽ loạn nhịp, "tiếng đàn như cỏ mọc hoang". Đây thực sự là một mất mát lớn lao của nhân dân Tây Ban Nha, của nền nghệ thuật ở xứ sở Tây Ban cầm. Thanh Thảo chia sẻ niềm đau này bằng một hình ảnh thơ đẹp, được sắp đặt theo lối soi chiếu vào nhau, cho sắc màu lung linh chiếu toả :

giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng

Từ cách sắp đặt hình ảnh thơ này, nó tạo ra những liên tưởng có tính hiệu ứng dây chuyền. Giọt nước mắt tiếc thương của những người mến mộ dành cho Lor-ca như vầng trăng soi vào đáy giếng, lung linh, lan toả từ người này sang người khác, từ đất nước Tây Ban Nha lan ra cả nhân loại tiến bộ, và thêm một chuỗi nước mắt của Thanh Thảo góp vào, tạo ra sự cộng hưởng tình cảm ở đông đảo bạn đọc Việt Nam, khi nghĩ về Lor-ca với "tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm… tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ"

Dù sao thì Lor-ca cũng đã mất. Thanh Thảo cũng như bất cứ ai có lòng tưởng mộ thiên tài đành phải thừa nhận định mệnh phũ phàng, khi đường sinh mệnh của nhà thơ đã dứt. Điều quan trọng hơn, là ông đã kịp hoà vào trong dòng sông tình cảm ái mộ của công chúng, để tiếp tục trôi chảy với thời gian.

đường chỉ tay đã dứt
dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
Trên chiếc ghi ta màu bạc

Hãy để cho Lor-ca được ra đi một cách thanh thản, thoát khỏi mọi hệ luỵ, phiền toái của cuộc đời gian nan.

chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng im bất chợt
li-la li-la li-la…

Lá bùa hộ mệnh rồi cũng đến lúc không cần nữa, trái tim của bất cứ ai rồi cũng đến lúc bất chợt lặng yên, chỉ khác nhau là nó đến sớm hay muộn đối với mỗi cuộc đời. Riêng Lor-ca, dù nhịp tim của nhà thơ không còn đập nữa, nhưng dư ba con sóng thơ cùng với giai điệu tiếng đàn ghi ta li-la li-la li-la tha thiết mang theo khát vọng tự do và cách tân nghệ thuật của ông, tin rằng nó sẽ được cộng hưởng lan toả trong không - thời gian, neo đậu lâu dài trong tình cảm mến mộ của công chúng yêu nghệ thuật và trân trọng tự .

(Theo Nguyễn Tống -GV Trường Quốc Học Huế )

Bình giảng - Tìm hiểu bài Đàn Ghita của Lor-ca - Thanh Thảo


Đàn Ghita của Lor-ca
(Thanh thảo)

I. Đọc văn bản
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn

Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du

tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy

không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng

đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc

chàng ném là bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vàng lặng yên bất trợt

li-la li-la li-la …

II. Tìm hiểu văn bản
1/ Bản sắc dân tộc của hình tượng Lorca (Khổ 1)
Lor ca là một nhà thơ nổi tiếng, ông không chỉ là một người con sứng đáng của đất nước TBN, ông còn là tiếng nói, là niềm vui nỗi buồn của đất nước mình. Nhờ những vần thơ tài hoa của ông mang đậm chất dân gian, mà người ta nghe thấy tiếng hoàng hôn than khóc ánh bình minh. Tiếng đàn ghi ta cất lên làm sao xuyến tiếng đôi thằn lằn thì thầm bên tảng đá ven sông, tiếng cát lạo sạo dưới chân cặp người yêu bên nhau. Cũng nhờ tiếng thơ của ông, đất nước TBN hiện lên với chiều dài lịch sử với những sắc màu độc đáo nồng nhiệt. Nhưng vẫn phản phất đâu đó những nỗi buồn.

Nhân cách cao đẹp và số phận oan khốc của Lorca đã khiến Thanh Thảo ngưỡng mộ và xúc động sâu sắc, tạo được sự đồng cảm giữa người sáng tác và người đọc, gợi được những nét đặc trưng của văn hóa TBN, nơi nuôi dưỡng tâm hồn của Lorca.

Một trong hình ảnh mang đậm bản sắc của TBN chính là hình ảnh áo choàng đỏ. 


- Hình ảnh “áo choàng đỏ” nhắc nhở môn đấu bò tót, một hoạt động văn hóa khiến TBN nổi tiếng thế giới. Nhưng đây không phải đấu trường giữa đấu sĩ với bò tót mà là đấu trường đặc biệt giữa khát vọng đấu tranh dân chủ của công dân Lorca với nền chính trị độc tài của khát vọng cách tân nghệ thuật trong chàng nghệ sĩ Lorca với nền nghệ thuật già nua. Màu áo đỏ gắt tráng lệ, bỗng biến thành bê bết đỏ, màu đỏ đau thương đã nhốm máu thi nhân, đã hủy diệt cái đẹp.


- Nhìn theo góc độ nào cũng chỉ thấy con người tự do, nhà cách tân nghệ thuật mong manh, đơn độc đi tìm cái đẹp trong thế giới bạo tàn, trong nền cảm thông của nhà thơ VN- Thanh thảo.

Ngoài ra các hình ảnh: “Vầng trăng”, “yên ngựa”, “cô gái Di-gan” và âm thanh “li-la” cũng gợi một không gian văn hóa đậm đà bản sắc TBN. Hình tượng Lorca nổi bật trên cái nền văn hóa đó thật cao quý. Đó là một tràng kị sĩ lang thang đơn độc, một ca sĩ dân gian TBN hát nghêu ngao. Bởi Lorca không chỉ đơn độc trong sáng tạo nghệ thuật, mà còn đơn độc trong mục đích đấu tranh chân chính. Đất nước TBN với nền chính trị độc tài, vẫn không ngừng ngêu ngao những âm thanh cùng mục đích với Lorca. Dù nỗi bất hạnh của cuộc đời ai cũng cảm thấy nhưng tất cả như muốn ngóng chờ địa vị đó ở Lorca. Vì thế TBN trở nên kinh hoàng khi nghe tin Lorca bị giết hại. Hình ảnh Lorca bị điệu về bãi bắn với cây đàn, chàng đã như người mộng du.

Cùng với bầu trời đồng cỏ, dòng sông tạo một ấn tượng đau sót về hình ảnh một con người chân chính đang chập chờn đi vào cõi chết. Chàng nghệ sĩ đi đến cái chết mà tâm hồn và tiếng đàn của chàng vẫn say đắm trong cái đẹp của cuộc sống và nghệ thuật. Chàng thả hồn vào tiếng ghita nâu, tiếng ghita lá xanh biết mấy. Màu nâu của vỏ đàn, mà của đất, màu xanh của tình yêu và cuộc sống. Bởi lẽ đối với người TBN thì loại nhạc cụ này tự nhiên hể như hơi thở như nỗi buồn mênh mang, mà bất cứ người TBN nào cũng đã hấp thụ cùng sữa mẹ, nó cũng hệt như tiếng hát ru con mà Lorca được những người phụ nữ láng giềng hát cho nghe thủa ấu thơ. Chàng đối diện với tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy, đối diện với họng súng quân thù. Mà tâm hồn còn mải miết hướng về bầu trờ cô gái ấy, hướng về tình yêu và cuộc sống dân chủ tươi đẹp không màng cái chết cận kề. Lá bùa ném trôi vào xoáy nước khép lại cuộc đời người chiến sĩ chống Phát xít kiên cường. Những người yêu dấu của đất nước TBN như tiếng đàn với âm thanh Lili thơm sắc hoa Tử Linh Hương thì mãi lan tỏa trên dòng sông cuộc sống vĩnh hằng.

2/Giây phút bi phẫn của cuộc đời Lozca (Khổ 2+3)
- Ông bị bọn Phát xít sát hại rồi ném xác xuống giếng để phi tang . Với tính cách trung thực yêu tự do, yêu cái đẹp và một tâm hồn tràn đầy khát vọng về cuộc sống tươi sáng cho nhân dân mình. Việc Lorca đến với cuộc đấu tranh chống áp bức là tất yếu


- 1936 ông và một số người cùng chí hướng trong đó có cả các đảng viên cộng sản thành lập liên đoàn trí thức chống Phát xít.


- 16/07/1936 ông trở về quê hương, để dự hội thánh. Đó cũng là những ngày bùng lên cuộc nội chiến giữa lực lượng dân chủ TBN với lực lượng Phát xít phản động. Trên đường đi ông bị bọn phản động chặn-bắt. Rồi bị sử bắn tại mảnh đất gần quê hương (Gốc cây Olive) vào một sáng 8/1936 cạnh gốc cây Olive. Cái chết của Lorca là sự kiện gây chấn động lớn không chỉ ở TBN mà còn với toàn thế giới, không chỉ lúc bấy giờ mà con âm vang tới nhiều năm sau.


- Thanh Thảo muốn phục sinh thời khắc bi tráng đó để tỏ sự ngưỡng mộ đau sót bằng hình ảnh biểu tượng nghệ thuật Lorca qua một hình ảnh quen thuộc và độc đáo đàn Ghita, khổ 2 và 3 đã tập trung khắc họa ấn tượng về cái chết bi phẫn của Lorca.


- Đối lập và nhân hóa là 2 hình tượng nghệ thuật nổi bật mà Thanh Thảo đã dùng trong bài thơ:


- Đối lập giữa khát vọng tự do của người nghệ sĩ với thế lực tàn ác của bọn Phát xít. Đối lập giữ tiếng đàn, tiếng hát yêu đời vô tư, với hiện thực phũ phàng đến kinh hoàng, hiện thực đẫm máu. Áo choàng bê bết đỏ, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy. Trên tất cả là sự đổi lập giữa tình yêu cái đẹp với nhưng thế lực dã man tàn bạo.


- Hình ảnh tiếng Ghita ròng ròng máu chảy, được tạo ra bằng nghệ thuật nhân hóa có sức ám ảnh rất đặc biệt: Âm nhạc đã thành thân phận, tiếng đàn đã thành thân thể, sinh thể, linh hồn của người nghệ sĩ bất tử. 


- Tác giả còn sử dụng những biện pháp hoán dụ: tiếng đàn để chỉ nghệ sĩ Lorca, áo choàng bê bết đỏ chỉ cái chết bi phẫn của nhà thơ. Biện pháp so sánh và chuyển đổi cảm giác theo thuyết tương giao của lối thơ tượng trưng siêu thực trong bài thơ, khiến những hình ảnh thơ là những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc.


+ Tiếng ghita nâu: tình yêu say đắm
+ Tiếng ghita lá xanh: của sự sống và cái đẹp muôn đời
+ Tiếng ghita tròn bọt nước: cái chết bất ngờ
+ Tiếng ghita ròng ròng máu chảy: nỗi đau bi phẫn.
- Âm thanh đã vỡ nhòa thành màu sắc hình khối, đường nét, gợi bao xúc động xót thương trước cái chết bất ngờ của người con TBN yêu quý. 

3/ Niềm tin vào sự bất tử của tiếng đàn Lorca(Phần còn lại)
- Cái chết của Lorca thật bất ngờ và đau xót. Ông không có một phần riêng không ai nhìn thấy thi thể của ông. Ông đã trở thành một phần máu thịt của đất nước TBN nhưng hồn ông hòa vào núi sông TBN toàn bộ cuộc đời Lorca gây ấn tượng như một mùa hè không thể nào quên rực rỡ và chan hòa ánh nắng bởi chàng nghệ sĩ tài hoa, người anh hùng chống Phát xít đã bị giết hại một cách đê hèn. Thân thể của Lorca có thể mục nát dưới đáy giếng, cây đàn của chàng có thể bị bạo lực đập vỡ nát. Nhưng linh hồn và tiếng đàn của chàng thì mãi ngân vang.


- Hình ảnh ấn dụ “tiếng đàn” tượng trưng cho nghệ thuật của Lorca, cho tình yêu con người và yêu tự do mà ông suốt đời theo đuổi thì sẽ sống mãi. Lorca là một ca sĩ yêu tự do mà đơn độc. Chàng một mình lang thang hát lên niềm khát vọng của nhân dân mình. Chàng từng dự cảm về cái chết của mình và mong muốn khi tôi chết hãi chôn tôi với cây đàn ghita trong cát, giữa bạt ngàn rừng cam và thơm mát đồng cỏ. Thế thì lời thơ, tiếng đàn như cỏ mọc hoang của Thanh Thảo dường như là chính hình ảnh của Lorca của người nghệ sĩ TBN bất tử đã thấm vào cảm súc của nhà thơ VN sinh sau Lorca cả nửa thế kỉ.


- Hãy để cho tiếng đàn ấy trở về với thiên nhiên, với sự sống vĩnh hằng, bởi đây là cái đẹp không ai có thể hủy diệt, nó sẽ sống, sẽ lan truyền mãi, giản dị mà kiên cường như cỏ dại .“Không ai chôn cất tiếng đàn, tiếng đàn như cở mọc hoang” . Hình tượng tiếng đàn còn gợi nỗi sót thương của một thiên tài, và nỗi xót tiếc của một hành trình cách tân nghệ thuật dang dở của Lorca, với nền văn chương của TBN. Bở lẽ nhà cách tân Lorca đã chết nghệ thuật thiếu vắng kẻ dẫn đường, nghệ thuật thành thứ: “cỏ mọc hoang” . Tất cả đã đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn được viết theo lối tượng trưng. Tạo thành những trùng phúc giao thoa ánh xạ vào nhau, gợi những suy tư đa chiều bộc lộ sự chân trọng và niềm tin mãnh liệt của tác giả và sự bất diệt của tiếng đàn Lorca. Những hình ảnh đó là: “giọt nước mắt vầng trăng” “long lanh đáy giếng” “dòng sông” “lá bùa” “chiếc ghita nâu” . Lorca bị giết hại và bị ném thi thể xuống giếng. Ông nằm đó long lanh như làn nước mắt khổng lồ, giọt nước mắt sáng trong khóc thương và ngợ ca người con yêu quí của TBN. Ông nằm đó như vầng trăng long lanh soi tỏ một con người đã chết cho đất nước, cho sợ phồn sinh của nền dân chủ.


- Hình ảnh đường chỉ tay đã đứt: ẩn dụ về số phận nghiệt ngã, nhắc tới chi tiết Lorca bị thủ tiêu, bị ném xác xuống giếng, hình ảnh này cũng gợi số phận ngắn ngủi giữa dòng sông-dòng đời vô tận. Lorca bị thủ tiêu, bị ném xác xuống giếng đó là vết thương mãi chưa lành ở TBN như báo chí phương Tây từng viết. Và ghita chuyển màu bạc gợi cái chết và sự siêu thoát cái chết của Lorca trong niềm kính cẩn của mọi người. 


- Các hành động ném lá bùa, ném trái tim, bơi sang ngang cũng có ý nghĩa tượng trung cho một sự giã từ, một sự chọn lựa di chúc: “hi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta” của Lorca.Trong bài thơ ghi nhớ được lấy làm đề từ của bài thơ của Thanh Thảo, như một chìa khóa ngầm hướng người đọc hiểu thông điệp sâu sắc của bài thơ. Nó không chỉ bộc lộ tình yêu say đắm của Lorca với nghệ thuật với xứ sở Tây Ban Cầm, mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn. Cái chết thực sự của một nhà cách tân là khi những khát vọng của anh ta không có ai tiếp tục. Nhưng cái chết đau đơn hơn của một nhà cách tân khi tên tuổi còn là cái chết của anh được đưa lên bệ thờ và sự sáng tạo nghệ thuật của anh trở thành bức tường kiên cố cản trở sự cách tân văn chương của những người đến sau.

Nhân danh lòng kính trọng Lorca hãy để Lorca có được sự giải thoát thực sự . Lorca bơi sang ngang trên chiếc ghita màu bạc. Cây đàn ghita đã cùng bên Lorca hát lên lời hát Lo-xi-a. Trên khắp xứ sở TBN tươi đẹp rực rỡ nắng trời thơm mát hoa cỏ, với những con người TBN phóng thoáng giờ đây chuyển màu bạc, vĩnh biệt đi vào cõi bất tử, lời thơ chan chứa yêu thương, ngưỡng mộ đau sót, đồng cảm của nhà thơ VN. Lorca chọn con đường đi và chấp nhận số phận của mình. Nhà thơ Thanh Thảo dường như đau sót ngưỡng mộ cũng đồng tình với Lorca, ném trái tim mình và lặng yên bất chợt, nhưng tiếng hát tiếng đàn thơm sắc hoa Tử Linh Hương, của người nghệ sĩ không chết lila, lila

III. Kết luận
1.Giá trị nghệ thuật
Bài đàn ghi ta của Lorca là bài thơ có cấu trúc cách tân vừa có cấu trúc tự sự, vừa có cấu trúc nhạc gồm bè trầm và phần nhạc đệm của chuối âm ghita lila, lila, lila,…

Bài thơ có phong cách tượng trưng, pha màu sắc siêu thực gần gũi với phong cách thơ của Lorca. Đây là trường phái nghệ thuật ra đời những năm 20 của thế kỉ 20. Chú ý cái tôi đa ngã, cấu trúc thơ nổi không vần đã đảo lộn ngữ pháp cổ điển cũng rất gần gũi với phong cách thơ của Lorca. Một nhà thơ VN – Thanh Thảo đã có một Lorca trong lòng như vậy nên đàn ghi ta của lorca được xem như là sự gặp gỡ đẹp tạo thành phút bùng nổ của năng lượng sáng tạo của Thanh Thảo

Hình ảnh thơ phong phú, ngôn từ mới mẻ góp phần làm nên diện mạo phong phú của thơ ca Việt Nam sau năm 1975

2/Nội dung tư tưởng
Bài thơ là tiếng nói tri ân của Thanh Thảo với nghệ thuật chân chính và nghệ sĩ Lorca, từ đó bài thơ xây dựng được hình tượng Lorca đẹp và cảm động với nhiều khía cạnh khác nhau:
- Một nghệ sĩ tự do và cô đơn
- Một cái chết oan phẫn bởi những thế lực tàn ác
- Một tâm hồn cao quý bất diệt
=> Đây là một hình tượng bi tráng về người nghệ sĩ chân chính trong một môi trường bạo lực thống trị
Thanh Thảo đã từng viết: Lorca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh cảm nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến những linh cảm thành ngôn từ. Lorca siêu thực một cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự nhiên

Sưu tầm