Jul 5, 2012

CSS3 for web designer

From advanced selectors to generated content to the triumphant return of web fonts, and from gradients, shadows, and rounded corners to full-blown animations, CSS3 is a universe of creative possibilities. No one can better guide you through these galaxies than world-renowned designer, author, and CSS superstar Dan Cederholm. Learn what works, how it works, and how to work around browsers where it doesn't work.

[DOWNLOAD] http://www.mediafire.com/?ltp76kmqxk5tvxh

Phân tích 12 câu thơ Việt Bắc



Việt Bắc của Tố Hữu ra đời trong không khí chia ly bịn rịn nhớ thương giữa Đảng và chính phủ với đồng bào Việt Bắc. Đồng thời thể hiện ân nghĩa thủy chung của kẻ ở người về. Đặc biệt 12 câu thơ sau đây tái hiện một cách chân thật và xúc động những năm tháng đấu tranh gian khổ nhưng sâu nặng nghĩa tình của Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Chính đoạn thơ này đã để lại trong lòng người đọc giả một cách ân tượng khó quên. 

“Mình đi có nhớ những ngày… 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”

Đoạn thơ mở đầu với lối xưng hô quen thuộc, âm điệu ngọt ngào tha thiết “Minh đi,… nặng vai”. Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ “có nhớ”, điều này gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng của người ở lại – một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: “Cán bộ về xuôi, cán bộ có còn nhớ chiến khu Việt Bắc nữa không ?”

Có nhớ Việt Bắc với nhưng ngày “mưa nguồn suối lũ” câu thơ đã tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, một vùng quê núi non hùng vĩ, nơi bản thôn chìm trong mù sương... 

Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt, khó khăn của thiên nhiên, “mình và ta”còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian khổ “miếng cơm chấm muối”. Hình ảnh hoán dụ “mối thù nặng vai”, gợi liên tưởng đến “mối thù” sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ nhẫn tâm bán nước ta cho giặc.

Đồng thời còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Vẫn tiếp tục với giọng thơ ngọt ngào với những câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ thơ thiết:
“mình về…. mai để già”Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ “rừng núi nhớ ai” – “rừng núi” chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” là chỉ người cán bộ về xuôi – nhằm nhấm mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ… Tác giả phải là người rất gắn bó máu thịt với vùng quê Việt Bắc này, nên mới có thể am hiểu thiên nhiên ở đây một cách sâu sắc đến vậy “trám bùi…để già” tác giả lại sử dụng câu hỏi tu từ như khắc sâu hơn nỗi nhớ:
 Mình đi có nhớ những nhà...thuở còn Việt MinhCụm từ “nhớ những nhà” – biện pháp hoán dụ - gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân Việt Bắc hay không ?Chứ nhân dân Việt Bắc nhớ cán bộ nhiều lắm, nhớ đến nỗi hắt hiu lau xám. Từ láy “hắt hiu” kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc “lau xám” càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, im lặng của núi rừng. 

Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là Đậm đà lòng sonlà lòng thủy chung, trước sau như một và chân thành của con người Việt Bắc đối với Đảng và chính phủ. Ngoài ra, nhân dân Việt Bắc còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ “núi non”, nhớ thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau “kháng Nhật”, “thuở còn làm Việt Minh” hay không? Đây là những năm tháng đầy ác liệt nhất. Từ những năm tháng gây go ác liệt ấy đã tạo nên sức mạnh để trung ương Đảng – Chính phủ và người Việt Bắc vượt qua tất cả làm nên chiến thắng. Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:

 Mình đi... Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa
Chỉ với hai câu thơ, nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành, khó mà phân biệt được ai là kẻ ở ai là người về.
Ở câu thơ cuối trong khổ này, tác giả đã sử dụng phép liệt kê Tân Trào, Hồng Thái..để nhắc lại những địa danh nổi tiếng đã từng đi vào lịch sử của dân tộc, nơi đã chứng kiến sự trưởng thành và lớn mạnh của lực lượng Cách mạng. Chính những địa danh này đã đi vào kí ức của người về và là niềm tự hào kiêu hãnh của người ở lại.

Đoạn thơ ngắn gọn thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của Tố Hữu: Lối xưng hô, hình ảnh quen thuộc âm điệu tha thiết, câu hỏi tu từ và động từ như khắc chàm nỗi nhớ kẻ ở người đi đó là tình cảm chân thành sự gắn bó tha thiết nỗi nhớ mong đầy ấp. Đó chính là sự son sắt thủy chung của Trung ương Đảng đối với Cách mạng và của Cách mạng với Việt Bắc. Có đọc có suy ngẫm đoạn thơ này mới vấn vương lưu luyến son sắc của “mình” với “ta” của “ta” với “mình”.

ST
Bài viết hay về Nhà thơ Tố Hữu
+++++++++++++++++++++

Phân tích 12 câu thơ trong khổ 3 của bài “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu



Phân tích 12 câu thơ trong khổ 3 của bài “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu

Đề: Phân tích 12 câu thơ trong khổ 3 của bài “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu

Nhắc đến Tố Hữu thì ai cũng biết ông là một trong những nhà thơ trữ tình Cách Mạng hàng đầu của nền văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu là tiếng thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và cuộc sống Cách Mạng. Bài “Việt Bắc” là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung.Có thế nói, “Việt Bắc” là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca,thế hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa Cách Mạng cả nước. Điều này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ: 

“Mình đi,có nhớ những ngày
…….
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?”
“Việt Bắc” là tác phẩm trường thiên,dài 150 dòng,được Tố Hữu viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hổ và cán bộ từ giã “Thủ đô gió ngàn” để về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình” .Bao trùm đoạn thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở người đi – người miền ngược và người đi kháng chiến.
Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ “có nhớ”,điều này gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng của người ở lại – một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: “Cán Bộ về xuôi, Cán Bộ có còn nhớ chiến khu VB nữa không ?”. Để cho VB hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên VB “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” , câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng VB, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt,khó khăn của thiên nhiên, “mình và ta” còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn,đầy gian khổ “miếng cơm chấm muối”. Hình ảnh hoán dụ “mối thù nặng vai”, gợi liên tưởng đến “mối thù” sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thờ còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu điệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc,ấm no. Ngệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 - 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm tha thiết.
Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của VB nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ “rừng núi nhớ ai” – “rừng núi” chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” là chỉ người cán bộ về xuôi – nhằm nhấm mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân VB đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ…Thiên nhiên và con người VB nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức “trám bùi để rụng, măng mai để già” – “trám bùi và măng mai” là hai món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là “đặc sản” của thiên nhiên VB. “Mình về” khiến núi rừng VB bỗng trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi “trám bùi – măng mai” mà cũng không ai thu hái. Người ở lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật chân thành và tha thiết.
Nhân dân VB vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: “Cán Bộ về xuôi có nhớ cảnh vật VB, con người VB, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không ?”
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”
Cụm từ “nhớ những nhà” – biện pháp hoán dụ - gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân VB hay không ?Chứ nhân dân VB nhớ cán bộ nhiều lắm,nhớ đến nỗi ”hắt hiu lau xám”.Từ láy “hắt hiu” kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên VB “lau xám” càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng,đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là “tấm lòng son”, tấm lòng ấm áp và chân thành của con người VB. Ngoài ra, nhân dân VB còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ “núi non”, nhớ thiên nhiên VB hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau “kháng Nhật”, “thuở còn làm Việt Minh” hay không ? Chính nghĩa tình của đồng bào VB đối với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn làm cho VB – quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng – càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng av2 trong lòng người đọc nói chung.
Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Chỉ với hai câu thơ,nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách.Mếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là VB – đại từ nhân xưng ngôi thứ hai – thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân VB, nhớ đến người ở lại không ?”. Ở nghĩa hẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác: Cán bộ về xuôi, cán bộ có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân, nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp,vì độc lập tự do của dân tộc hay không?”. Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.
“Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Ở câu thơ cuối trong khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện quan trọng đã từng diễn ra ở VB. Địa điểm thứ nhất: sự kiện “cây đa Tân Trào” (12/1944), đây là nơi đội VN tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát, lúc đầu chỉ với mấy chục thành viên nhưng sau đó trở thành đội quân VN- lực lượng chủ chốt đã làm nên chiến thắng ngày hôm nay. CÒn địa điểm thứ hai là tại đình “Hồng Thái” nơi Bác đã chủ trì cuộc họp (8/1945) quyết định làm cuộc CMT8; chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công vang dội,có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng VB chính là cái nôi của CM, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không ? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với VB như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ ?”
Chỉ với 12 câu thơ trong khổ 3 của bài VB, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tó Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập “mình đi – mình về”.Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình đi – mình về” đều chỉ một hướng là về xuôi,về Hà Nội.Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 - 4/4 đều đận, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu.
“Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc” của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài VB. Những chi tiết về ánh sáng và tình người, từ “miếng cơm chấm muối, trám bùi,măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám…” đến “mối thù” hai vai chung gánh, những “tấm lòng son” sẽ không bao giờ phai nhạt,sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân VB,của những cán bộ về xuôi ./.
Sưu tầm

Bài viết hay về Nhà thơ Tố Hữu
+++++++++++++++++++++

Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc được biểu hiện cụ thể ở những phương diện nào?

Đề : Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc được biểu hiện cụ thể ở những phương diện nào? Trình bày vắn tắt và nêu dẫn chứng minh họa.
Gợi Ý : 

A- Mở Bài

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp.Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng 20 năm 1954 nhân một sự kiện lịch sử.Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội.Từ điểm xuất phát ấy bài thơ thể hiện tình gắn bó thắm thiết giữa người ra đi và người ở lại,giữa miền xuôi và miền ngược,giữa người cán bộ với Việt Bắc quê hương của cách mạng,với đất nước và nhân dân,với Đảng và Bác Hồ,với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn.

Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi và đón nhận cuộc sống thanh bình nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lại.Có thể nói,bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước,là truyền thống ân nghĩa,đạo lý thuỷ chung của dân tộc.

B-Thân bài

1.Việt Bắc với vẻ đẹp của cảnh và người
a) Nét độc đáo của cảnh Việt Bắc.
b)Sự hoà quyện giữa cảnh và người.
Trước hết với kiểu kết cấu đối đáp rất đậm đà tình nghĩa của bài thơ Việt Bắc là tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi.Cảnh Việt Bắc hiện ra những vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng,thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều miền quê khác của đất nước.Việt Bắc đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi,nắng chiều lưng nương”,hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm,những bếp lửa hồng trong đêm khuya,là những “rừng nứa bờ tre,ngòi thưa,sông Đáy” là tiếng mõ trâu về trong rừng chiều,tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Nhưng có lẽ nổi bật nhất là nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự hoà quyện với người,là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động,thuỷ chung trong nghĩa tình:
Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú,đa dạng,thay đổi theo thời tiết,từng mùa.Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản dị,người đi làm nương rẫy,người đan nói,người hái măng…Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến.Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cũng nhau chịu đựng gian khổ thiếu then,cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề,khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và cán bộ tất cả càng làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà thơ.Việt Bắc- đó là hình ảnh những mái nhà “Hắt hiu lau xám,đậm đà lòng son”,hình ảnh người mè “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”,là những ngày tháng đồng cam cộng khổ:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng
Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng suet b ài thơ tạo nên khúc ca ngọt ngào,đằm thắm của tình yêu đồng chí với đồng bào,của tình yêu thiên nhiên,yêu đất nước,yêu đời.

2.Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu
a)Khung cảnh sử thi
b)Vai trò Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến.
Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hình ảnh hào hùng,những hoạt động sôi nổi,những âm thanh náo nức,phấn chấn.ở đây bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc,Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá,muôn tàn lửa bay.
Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích,những chiến công ,đèo Giàng,sông Lô,phố Ràng,Hoà Bình,Tây Bắc,Điện Biên…..Nhưng Tố Hữu không thể miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà chỉ còn đi sâu vào lý giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng.Đó là sức mạnh của lòng căm thù : “Miếng cơm chấm muối,mối thù nặng vai”,sức mạnh tình nghĩa thủy chung: “Mình đây ta đó,đắng cay ngọt bùi” nhất là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân,của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên-tất cả tạo thành hình ảnh “đất nước đứng lên”
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội,rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết Tố Hữu đã đi sâu nhấn mạnh,hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng,căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến.Trong những năm đen tối trước cách mạng,hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa “mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mù” cho đến xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh,nơi sản sinh nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật,thủa còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình ,cây đa.
Trong những năm tháng kháng chiến gian lao Việt Bắc là nơi có “cụ Hồ soi sáng”,có “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công để kiên định niềm tin yêu của cả nước đối với Việt Bắc,Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái ca dao dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.
ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà.

3.Việt Bắc trong cảm hứng về ngày mai
a)Vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp
b)Dự đoán về sự tha hoá.
Từ tình cảm yêu mến,gắn bó với cảnh và người Việt Bắc từ niềm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ,Tố Hữu vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp của Việt Bắc ngày mai trong khung cảnh xây dựng cuộc sống mới hoà bình,phồn vinh.
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy ,bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ,thiết Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.
Những hình ảnh ấy là mơ ước,khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán bộ kháng chiến muốn đền đáp nơi từng là cội nguồn của cách mạng,nơi đã cưu mang,che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh.
+Đặc biệt ở những dòng cuối cùng của bài thơ người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc sảo,nhạy bén của bài thơ Tố Hữu khi hướng về ngày mai,nhà thơ không quên,một nét đẹp trong đạo lý truyền thống của dân tộc đó là tình nghĩa thuỷ chung,có mới mà không nới cũ,luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền ngược,giữa cán bộ và nhân dân của mình.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Có thể coi đây là lời cảnh báo về sự tha hoá khi có sự thay đổi môi trường,khi người ta có thể quên đi tất cả tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến mình và vì mình.Cho đến hôm nay những lời thơ ấy của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự chứ không hề cũ xưa.

C-Kết luận

Nhìn chung Việt Bắc là một bài thơ trữ tình,chính trị bởi vì thơ ở đây là thơ với căn cứ cách mạng,với truyền thống cách mạng,với đất nước và nhân dân.Nhưng quan trọng hơn cả chuyện công tác cái đã làm cho người ta cảm động là bài thơ đã thể hiện hết được truyền thống ân nghĩa của dân tộc Việt Nam,thể hiện một khát vọng về một chiến sĩ chan hoà tình yêu thương,hạnh phúc,thanh bình,bền vững mãi mãi trên đất , quê hương

nguồn:giangvien

Ảnh hưởng của hoàn cảnh sáng tác đến nội dung và hình thức của bài thơ Việt Bắc



ẢNH HƯỞNG CỦA HOÀN CẢNH SÁNG TÁC ĐẾN NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA BÀI THƠ VIỆT BẮC
Bài viết hay về Nhà thơ Tố Hữu
+++++++++++++++++++++

- Việt Bắc được Tố hữu sáng tác vào tháng 10-1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
 

- Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt đầy xúc động bâng khuâng: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Đây là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt “mười lăm năm ấy”, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng, ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi.


- Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng đồng vọng. Hỏi và đáp đều mở ra bao kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.
 

(ST)
Bài viết hay về Nhà thơ Tố Hữu
+++++++++++++++++++++

Hoàn cảnh ra đời bài thơ Việt Bắc



- Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi dưỡng cho cách mạng trong suốt những năm trường kì chống thực dân Pháp trở về Hà Nội.


- Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam cộng khổ, với những người đã từng “chia ngọt sẻ bùi”. Người ra đi không khỏi bâng khuâng thương nhớ; người ở lại cũng không khỏi bịn rịn, trống trải, bùi ngùi…


Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu – một cán bộ của Đảng, một nhà thơ lớn của cách mạng đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954. Bài thơ đã có vinh dự được lấy làm tên chung cho cả tập thơ “Việt Bắc”, một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

Sưu tầm

Bài viết hay về Nhà thơ Tố Hữu
+++++++++++++++++++++

Bức tranh Tứ Bình Việt Bắc - Tố Hữu



Mở bài
Tháng 10 - 1954 miền Bắc hoàn toàn giải phóng, trung ương Đảng rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội, trước cuộc chia tay bồi hồi giữa kẻ ở người đi đầy tình nghĩa, nhà thơ Tố Hữu đã làm lên Việt Bắc. Việt Bắc là khúc tình ca cách mạng nồng nàn, nó thể hiện những tình cảm ân nghĩa thủy chung của người CM với nhân dân, với cuộc kháng chiến, với tổ quốc, tình cảm cách mạng này mang tính thời đại nhưng lại bắt nguồn từ ân nghĩa thủy chung của dân tộc nên đã có sức sống lâu bên trong quần chúng. Bài thơ nói như cách của XD: “Như một chiều vàng mùa thu trong đẹp, mà mỗi gốc cây, mỗi hòn đá đều vang ngân lên, tiễn đưa đầy cả ân tình”. Một trong những đoạn thơ hay thể hiện tư tưởng tình cảm của bài thơ thường được bạn đọc yêu thích gọi là bức tứ bình việt bắc chính là đoạn thơ:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái, hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Thân bài:
Nằm ở giữa bài thơ, cảm hứng bao trùm của toàn đoạn thơ này là nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến với cảnh và người VB. Mảnh đất xa xôi ấy, suốt 15 năm đồng bào các dân tộc dã trở che các cán bộ chiến sĩ. Vì thế nỗi nhớ không chỉ thiết tha bồi hồi với cảnh với người trong giờ phút chia li, mà nó còn thể hiện tình cảm thủy chung nặng nghĩa nặng tình với con người và vùng đất kháng chiến. Bằng lối đối đáp mình ta quen thuộc câu thơ mở đầu:

Ta về mình có nhớ ta
Lời thơ gợi ta nhớ đến bài ca dao: “Mình về ta chẳng cho về. Ta nắm vạt áo, ta đề bài thơ”. Đưa người đọc đến âm hưởng ngọt ngào của lối đối đáp giao duyên, đậm đà sắc thái dân tộc. Nhưng ta-mình ở đây không phải kẻ đi người ở của một mối tình lứa đôi mà là tình cảm cách mạng giữa người cán bộ kháng chiến với đồng bào VB. Qua lối đối thoại kết cấu bên ngoài chính là lời độc thoại của tâm trạng hay hay nói cách khác không chỉ là lời nói lời đáp, mà còn là sự hô ứng đồng vọng.

Hai dòng thơ đầu chính là tâm trạng của nhân vật trữ tình, người cán bộ chiến sĩ về xuôi.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Câu thơ đầu tiên tự hỏi, câu thứ 2 tự trả lời. Bốn chữ ta điệp lại khiến âm hưởng câu thơ ngân xa, mang theo nỗi nhớ nồng nàn lưu luyến, gửi lại VB, gửi lại chiến khu. Nhớ chiến khu VB là nhớ hoa cùng người, nhớ thiên nhiên VB tươi đẹp đầy âm thanh, nhớ con người VB mộc mạc nghĩa tình. Cảnh và người hòa hợp trong nỗi nhớ khiến đoạn thơ thêm đẹp và hoàn hảo. Hư từ “những”, “cùng” chồng chất thêm nỗi nhớ da diết trong lòng những người cán bộ về xuôi.

Tám câu còn lại là bốn cặp lục bát, câu lục tả hoa thì câu bát tả người. Và nó được xem là bức tranh tứ bình với bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông. Đây là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, người là sản phẩm kì diệu tuyệt vời của tạo hóa. Bức từ bình mở ra bằng mùa Đông: 
Mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Câu thơ mở ra không gian rộng lớn là rừng xanh, một màu xanh mênh mông khoáng đạt của rừng già. Trên cái nền màu xanh nổi bật lên màu đỏ của bông hoa chuối, màu đỏ nồng thắm ấy xua tan đi cái lạnh lẽo hoang sơ. Chữ “tươi” đã làm bừng sáng cả núi rừng. Có lẽ TH đã dùng nghệ thuật điểm xuyến như câu thơ cổ:

Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Nhớ mùa đông VB còn nhớ tới những người đi làm nương rẫy, người VB khi đi rừng luôn gài con dao bên thắt lưng để phòng thú dữ và phạt chướng ngại vật. Trên đèo cao ngập nắng và lộng gió, màu xanh của rừng, màu đỏ của hoa chuối, cùng với sự phản chiếu của ánh nắng hòa hợp với nhau thể hiện một tư thế đẹp, hiên ngang làm chủ núi rừng.
Mùa xuân:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang.

Mùa xuân sang rừng được khoác lên tấm áo của màu hoa mơ trắng, một vẻ đẹp thanh khiết, tinh khôi đến thơ mộng. Hai chữ “trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ, thông thường màu trắng là tính từ chỉ màu sắc, nhưng từ trắng trong câu thơ này được dùng như một động từ. Có tác dụng nhấn mạng vào màu trắng, màu trắng ấy dường như lấn áp tất cả màu xanh của lá là bừng sáng cả khu rừng.
Nhà thơ không viết là “ mùa xuân mơ nở” mà là “ngày xuân mơ nở” khiến nỗi nhớ VB trở lên sâu nặng hơn, cụ thể hơn. Động từ “nở” khiến cho màu sắc như đang vận động, mùa xuân tràn ngập những hoa mơ, sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về. Nhớ mùa xuân VB thì ta sẽ nhớ tới những người thợ thủ công đan nón phục vụ cho cách mạng “chuốt từng sợi giang”. Chuốt có nghĩa là làm bóng lên, làm mềm những sợi giang. Chỉ có bàn tay khéo léo, tỉ mì, cần cù mới có thể làm được việc này. Động từ chuốt gợi lên hình ảnh người con gái thanh mảnh, dịu dàng và tài hoa.
Mùa hạ:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái, hái măng một mình

Âm thanh vang vọng của tiếng ve làm cả khu rừng đồng loạt chuyển màu. Phách là một loại cây riêng biệt của núi rừng, thường nở hoa vào tháng sáu, tháng bảy. Trước lúc nở hoa, nó đồng loạt thay lá. Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị, được cảm nhận bằng cả thính giác lẫn thị giác. Tiếng ve được nghe bằng thính giác, đổ vàng lại là thị giác. Từ đổ ở đây được dùng thật tinh tế.
Xuân diệu: “Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”. “Rủa” ở đây là ăn dần, lấn dần, từng tí. Còn Nguyễn Bính: “Lá xanh đã nhuộm thành cây lá vàng”. “Nhuộm” là thấm, là đậm, là hoàn tất. Còn chữ “đổ” chỉ một sự chuyển biến mau lẹ, đột ngột của màu sắc. Nó như nhãn tự của câu thơ. Làm cho cảnh mùa hè bừng sáng, tươi tắn. Nhớ mùa hè VB là nhớ những cô thiếu nữ Tày, Nùng đi hái măng giữa rừng nứa, rừng trúc. Người ta thường dùng bẻ măng, đào măng, nhưng TH thì dùng “hái măng”. Một chữ “hái” thơ mộng lãng mạng. Câu thơ gợi nhớ đến cô gái hái mơ của Nguyễn Bính. Nhưng ở đây cô gái VB của TH mang vẻ đẹp mộc mạc, chịu thương, chịu khó, "hái" từng gốc măng phục vụ cho cán bộ chiến sĩ đang chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Hai chữ “một mình” như bộc lộ thầm kín mến thương mang vẻ đẹp thơ mộng hòa quyện với núi rừng.
Mùa thu:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Không gian của núi rừng chuyển từ ngày sang đêm, gợi một không khí huyền ảo, thanh bình và trữ tình. Câu thơ gợi nhớ áng thơ: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa, trong đêm chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” của Bác Hồ. Dường như trăng chiến khu đã bén duyên cùng thi ca cách mạng. Cảnh trăng thu VB càng cuốn hút hơn bởi tiếng hát vọng trong đêm trăng. Một chữ “ai” phiếm chỉ bóng gió, tình tứ xa xôi. Sự sáng tạo của TH là mượn màu sắc của tình yêu để nói lên tình nghĩa dọng lại trong nỗi nhớ người ra đi. “Tiếng hát ân tình thủy chung” của họ theo như điệu dân ca VB hát then, hát lượn đã tác động đến tinh thần làm vơi bớt sự nhọc nhằn của các cán bộ chiến sĩ xa quê hương đi kháng chiến. 
Kết bài
Mười câu thơ cho ta bốn cảnh sắc, bốn con người, bốn dáng điệu, bốn bức tranh, mỗi bức tranh có một vẻ đẹp riêng. Điệp từ nhớ trải dài đoạn thơ tạo một sắc thái tình cảm phong phú. TH rời VB cho ta những câu thơ ngọt ngào. Đọng lại trong nỗi nhớ là ân tình thủy chung với con người, thiên nhiên VB