Jul 5, 2012

Tìm hiểu về tác giả Tố Hữu



TÌM HIỂU VỀ TÁC GIẢ TỐ HỮU


Bài liên quan :
Nét tài hoa của Tố Hữu trong việc sử dụng cặp đại từ xưng hô ta –mình ở bài thơ Việt Bắc

I. NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ TIỂU SỬ VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT : 

1) Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/1920 tại làng Phù Lai, huyện Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế). Truyền thống văn hóa, văn chương của quê hương và gia đình là những nhân tố quan trọng trong sự hình thành hồn thơ Tố Hữu

- Năm lên 12 tuổi, mẹ mất. Năm 13 tuổi, vào trường Quốc học (Huế). Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng Cộng sản qua sách báo tiến bộ của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, Goocki... kết hợp với sự vận động, giác ngộ của các Ðảng viên ưu tú bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Ðăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), người thanh niên Nguyễn Kim Thành sớm nhận ra lý tưởng đúng đắn. Gia nhập Ðoàn thanh niên, hăng hái hoạt động, được kết nạp Ðảng năm 1938. 

- Tháng 4/1939, bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhiều nhà lao. Trong tù, người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi luôn giữ vững khí tiết, tiếp tục hoạt động cách mạng ở mọi hoàn cảnh. 

- Cuối 1941, vượt ngục (về hoạt động bí mật ở Hậu Lộc - Thanh Hóa). Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, là Chủ tịch Uíy ban khởi nghĩa của thành phố Huế. Năm 1946, là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, luôn giữ những trọng trách trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Ðảng và nhà nước (1948 : Phó tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam ; 1963 : Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam ; tại đại hội Ðảng lần II/02-1951 : Ủy viên dự khuyết Trung ương ; 1955 : Ủy viên chính thức ; tại đại hội Ðảng lần III/9-1960 : vào Ban Bí thư ; tại đại hội Ðảng lần IV/1976 : Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương ; từ 1980 : Ủy viên chính thức Bộ Chính trị; 1981 : Phó Chủ Tịch Hội đồng Bộ Trưởng). 

2) Thơ Tố Hữu là đỉnh cao thơ trữ tình chính trị Việt Nam (Trần Ðình Sử). Có thể tìm thấy ở đó những nét tiêu biểu của quan niệm nghệ thuật Cách mạng. 

- Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng ; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu, cái ác. Tóm lại, phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng. 

- Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn chương sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học. Với Tố Hữu, thơ là Tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí ; làm cho người ta không còn thấy giới hạn của câu chữ, khi cái tình thật mãnh liệt. Màu sắc dân tộc đậm đà cũng là yêu cầu hàng đầu đối với thơ hay, cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật. Dân tộc mà hiện đại, hiện đại trên cơ sở dân tộc, truyền thống. 

II. QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC : 

* Tác phẩm của Tố Hữu : 

- Thơ : Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và Hoa (1977) ; Một tiếng đờn (1993). 

- Tiểu luận : Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, với thời đại ta (1973), Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (1981). 

1. TỪ ẤY :

- Tập thơ đầu tay, gồm 71 bài, sáng tác trong 10 năm (1936-1946). 

- Chia thành ba phần, phản ánh rõ nét quá trình giác ngộ và trưởng thành của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Máu lửa gồm 27 bài, là thơ của thời kỳ Mặt trận Dân chủ ; tập trung vào những vấn đề lớn của thời đại như chống phát xít, phong kiến ; đòi hòa bình, cơm áo ; vấn đề quyền sống con người và cách mạng giải phóng dân tộc. Xiềng xích gồm 30 bài, viết trong tù ; thể hiện nỗi buồn đau và ý chí, khí phách của người chiến sĩ cách mạng trong chốn lao tù. Giải phóng gồm 14 bài, viết từ lúc vượt ngục đến một năm sau ngày độc lập ; chủ yếu ngợi ca lý tưởng, quyết tâm đuổi giặc, cứu nước và niềm vui chiến thắng. 

- Trong Từ ấy, không chỉ có tiếng chim rộn rã và hương hoa của niềm vui vừa bắt gặp lý tưởng, mà còn có lời an ủi, động viên chân tình đối với những số phận bất hạnh. Và sau cùng, nhân danh cách mạng, Từ ấy là tiếng thét đầy hờn căm, là hồi kèn xung trận thôi thúc mọi người xông lên, vào trận chiến mất còn với kẻ thù để giành lại quyền sống. 

- Tập thơ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng : khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng cộng sản trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, tạo bước ngoặt lớn cho quá trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. Tố Hữu không phải là nhà thơ của riêng tôi, mà là nhà thơ của tất cả thanh niên, nhà thơ của tương lai (K và T trên báo Mới, 1/5/1939). 

- Những bài thơ tiêu biểu : Mồ côi, Hai đứa bé ; Ði đi em ; Vú em; Dửng dưng ; Tiếng hát sông Hương ; Từ ấy ; Tâm tư trong tù ; Trăng trối ; Dậy mà đi ; Hồ Chí Minh ; Vui bất tuyệt,.... 

2. VIỆT BẮC : 

- Sáng tác chủ yếu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954), gồm tổng cộng 24 bài (trong đó có 06 bài dịch, 03 bài sáng tác sau 1954). 

- Là bức tranh tâm tình của con người Việt Nam trong kháng chiến, thể hiện quyết tâm bảo vệ sự toàn vẹn của đất nước. Cuộc kháng chiến thật nhộn nhịp, hồ hởi nhưng vô cùng gian khổ, đau thương. Nổi bật nhất là hình ảnh quần chúng nhân dân, những người gánh cả cuộc kháng chiến trên vai. Ðó là anh Vệ quốc quân hiên ngang như thiên thần, là em bé liên lạc Mồm huýt sáo vang. Như con chim chích. Nhảy trên đường vàng. Trên hết là hình ảnh Bác Hồ, lãnh tụ kính yêu - vừa cao cả, lớn lao vừa bình dị, gần gũi. 

- Ðánh dấu một bước phát triển của thơ Tố Hữu về giọng điệu, ngôn ngữ. Chất dân tộc đậm đà trong thi liệu bình dị, thể thơ quen thuộc. 

- Những bài thơ tiêu biểu : Phá đường, Bà mẹ Việt Bắc ; Bầm ơi ; Lượm ; Sáng tháng Năm ; Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên ; Việt Bắc ; Ta đi tới. 

3. GIÓ LỘNG 

- Gồm 25 bài, sáng tác trong 06 năm (1955-1961) ; tập trung vào hai nhiệm vụ chiến lược : xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ Ngụy, thống nhất đất nước ở miền Nam. 

- Tập thơ mở ra niềm vui lớn vì nửa nước được giải phóng, nhưng là niềm vui chưa trọn vẹn vì : 

Ðường giải phóng mới đi một nửa 
Nửa mình còn trong nước lửa sôi 
Một thân không thể chia đôi 
Lửa gươm không thể cắt rời núi sông 
(Ba mươi năm đời ta có Ðảng) 

Cái tôi trữ tình sôi nổi được bộc lộ trên nền hiện thực hoành tráng của cuộc sống mới. Gió lộng còn là thơ của lòng tri ân, nghĩa tình đối với Ðảng, Bác Hồ, với nhân dân. Tinh thần quốc tế vô sản cũng được đề cập (qua tình cảm đối với Liên Xô, Lê Nin). 

- Giọng anh hùng ca ngày càng khẳng định, đề tài có sức bao quát hiện thực, ý thơ mang tầm tư tưởng cao. 

- Những bài thơ tiêu biểu : Trên miền Bắc mùa xuân ; Với Lê Nin ; Người con gái Việt Nam ; Thù muôn đời muôn kiếp không tan ; Em ơi ... Ba Lan ; Ba mươi năm đời ta có Ðảng ; Tiếng ru ; Bài ca xuân 1961 ; Mẹ Tơm. 

4. RA TRẬN 

- Gồm 31 bài, sáng tác trong 10 năm chống Mỹ (1962-1971). 

- Hai dòng thơ mở đầu (ở bài thứ nhất) thể hiện cảm hứng chủ đạo của cả tập thơ : 

Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh 
Vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy 

Vốn là hồn thơ của yêu thương, nghĩa tình, Tố Hữu ao ước được làm thơ ngợi ca thanh bình. Nhưng khi miền Nam, rồi cả nước, chìm trong nước sôi lửa bỏng thì Có thể nào yên, có thể nào khuây.... Dành phần lớn tâm huyết để ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, do đó, giọng điệu tập thơ thấm đẫm chất hùng ca. 

Những bài thơ tiêu biểu : Có thể nào yên ; Miền Nam ; Trên đường thiên lý ; Hãy nhớ lấy lời tôi ; Tiếng hát sang xuân ; Chiếc áo xanh ; Mẹ Suốt ; Êmily, con...; Kính gửi cụ Nguyễn Du ; Tấm ảnh ; Bác ơi ; Theo chân Bác. 

5. MÁU VÀ HOA

- Gồm 13 bài, sáng tác trong 06 năm (1971-1977) ; có ý nghĩa tổng kết quá trình phát triển của dân tộc, của Cách mạng Việt Nam - một hành trình đầy máu, đầy hoa, Năm mươi năm máu đỏ thành hoa. 

- Máu : biểu tượng của nỗi đau uất hận trong hàng nghìn năm nô lệ và sự hi sinh, xả thân vì nghĩa lớn, xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ. Hoa : biểu tượng cho vẻ đẹp của lý tưởng cộng sản, của chủ nghĩa anh hùng và niềm vui ngày chiến thắng. 

- Xuất hiện nhiều bài thơ trường thiên với cảm xúc tổng hợp, bao quát hơn nửa thế kỷ đấu tranh (Nước non ngàn dặm; Với Ðảng, mùa xuân). 

- Những bài thơ tiêu biểu : Việt Nam máu và hoa ; Nước non ngàn dặm; với Ðảng, mùa xuân ; Một khúc ca xuân. 

6. MỘT TIẾNG ÐỜN :

- Gồm 72 bài, xuất bản năm 1993 ; được giải thưởng của Asian. 

- Là những dòng tâm tư, trăn trở từ mạch cảm xúc trong thời hòa bình. Ðời thôi lửa cháy, nên xuất hiện những dòng thơ tươi xanh - mang đậm cảm hứng thế sự. Ðề tài thơ phong phú, đa dạng : ngợi ca vẻ đẹp của quê hương, con người ; công cuộc xây dựng đất nước đầy phức tạp ; tình yêu và số phận con người ; ... Âm hưởng thơ bớt vang xa (hướng ngoại) mà vọng sâu hơn (hướng nội) 

Em ơi nghe đó, trong đêm lạnh 
Ðằm thắm bên một tiếng đờn 

- Ngoài giọng anh hùng ca vốn có, thêm giọng trầm lắng, đôi khi xót xa : 

Mới bình minh đó, đã hoàng hôn 
Ðang nụ cười tươi, bỗng lệ tuôn 
Ðời thường sớm nắng chiều mưa vậy 
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn ! 
(Một tiếng đờn) 

- Những bài thơ tiêu biểu : Một khúc ca ; Ðêm cuối năm ; Ðêm thu quan họ; Ðảng và thơ ; Một tiếng đờn ; Lạ chưa ? ; Xuân hành 92 ; Ta lại đi ; Anh cùng em. 

Nhận xét 

1) Con đường thơ của Tố Hữu và quá trình phát triển của Cách mạng Việt Nam là song hành. Bám thật chắc vào hiện thực đời sống, ở những khúc quanh, những bước ngoặt quan trọng, thơ Tố Hữu thường tỏ ra thích ứng rất nhanh nên cắm được nhiều cột mốc lịch sử. Tố Hữu là người viết sử Việt Nam hiện đại bằng thơ. 

2) Tố Hữu là hình ảnh tiêu biểu của một kiểu nhà thơ mới - nhà thơ trữ tình chính trị. Giữa nhà thơ - chiến sĩ ấy và quần chúng nhân dân không có một khoảng gián cách không gian hoặc tâm tưởng nào. Nhưng không phải một sớm một chiều, cái tôi trữ tình của Tố Hữu có được ngay sự hòa hợp nhuần nhị tuyệt vời với đời sống. Cần một quá trình lâu dài, với nỗ lực không ngừng của bản thân và sự hỗ trợ từ cuộc sống mới tốt đẹp Người yêu người sống để yêu nhau. 

III. NHỮNG ÐẶC ÐIỂM CHÍNH CỦA PHONG CÁCH THƠ : 

1) Ðỉnh cao của thơ trữ tình chính trị trong văn học Việt Nam hiện đại. 
Ở đó, có sự kế tục truyền thống thơ văn yêu nước thời Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, thơ ca Xô Viết Nghệ Tĩnh ; kết hợp với những cách tân nghệ thuật theo xu hướng hiện đại hóa. Thơ Tố Hữu là tiếng lòng của một kiểu nhà thơ mới, đứng giữa lòng cuộc sống mà cất lời kêu gọi đấu tranh. Qua tâm hồn chan chứa yêu thương của nhà thơ, các vấn đề và sự kiện chính trị liên quan tới vận mệnh cả dân tộc - đều thành nguồn xúc cảm nghệ thuật mãnh liệt. Do đó, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn bao trùm phần lớn sáng tác của Tố Hữu. Nhân vật trữ tình luôn nhân danh Ðảng, nhân danh cộng đồng ; tập hợp những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp ; được nâng lên tầm vóc mới - nên nhiều khi mang vẻ đẹp phi thường. 

2) Thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn.

+ Thế giới quan của Tố Hữu, ngay từ buổi đầu, đã mang bản chất cách mạng. Khi được Mặt trời chân lí chói qua tim, nhà thơ nhận ra con đường giải thoát duy nhất cho dân tộc Việt Nam : Cách mạng Vô sản. Bao chông gai thử thách đang chờ đón, nhưng có hề gì, người thanh niên ấy đã nguyện Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa. Lý tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại làm sục sôi nhiệt huyết trong trái tim chan chứa yêu thương. Giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, đem lại hạnh phúc cho mọi người đã trở thành sự nghiệp, lẽ sống tha thiết, thôi thúc nhà thơ hiến dâng trọn cuộc đời. Quyết tâm dấn thân vì nghĩa lớn và lòng trung thành tuyệt đối tạo nên chất men say kỳ diệu, có sức lôi cuốn tự nhiên, lâu bền. 

+ Thơ Tố Hữu thể hiện niềm vui, nỗi buồn và thái độ yêu-ghét đúng đắn. Ðó là tâm trạng của một người nguyện gắn bó máu thịt với nhân dân. Là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí. Thơ ấy, đã vui thì vui bất tuyệt, còn đau khổ thì Có khổ đau nào đau khổ hơn. Trái tim tự xát muối, cô đơn. Nhân sinh quan của Tố Hữu cũng mang bản chất cách mạng sâu sắc : yêu đất nước, con người và cái Thiện ; ghét kẻ thù phi nhân, ghét cái Aïc. Nhưng không phải kiểu yêu - ghét suông có màu sắc cải lương, bao giờ cũng dẫn đến hành động quyết liệt : tranh đấu tới cùng để bảo vệ chính nghĩa ; lên án, tiêu diệt những thế lực phản cách mạng, thù địch với con người. 

3) Giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết, hồn nhiên.

+ Dù là những dòng thơ tươi xanh hay những dòng thơ lửa cháy, giọng thơ Tố Hữu vẫn một điệu sôi nổi, mãnh liệt. Nhà thơ đặc biệt rung động với nghĩa tình cách mạng sâu nặng, luôn hướng đến đồng bào đồng chí mà chân thành giãi bày tâm sự, kêu gọi, nhắn nhủ. Giọng thơ có cái duyên riêng của hồn thơ xứ Huế. 

+ Sống và chiến đấu, tất cả cho Tổ quốc, Tố Hữu không mảy may so hơn tính thiệt cho riêng mình. Mối quan hệ giữa nhà thơ với quần chúng bao giờ cũng rất mực gần gũi, thủy chung, tin yêu tuyệt đối. Do đó, trong ước vọng về một thiên đường trên mặt đất - "Người yêu người sống để yêu nhau, tiếng lòng của nhà thơ được bộc lộ một cách hồn nhiên. 

4) Nghệ thuật thơ vừa giàu tính dân tộc vừa rất hiện đại. 

Dân tộc chủ yếu ở hình thức (thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, kết cấu). Hiện đại chủ yếu trong đề tài, tư tưởng chủ đề (các giá trị truyền thống được cảm nhận và thể hiện trên tinh thần mới mẻ). 

IV. KẾT LUẬN CHUNG 

Tố Hữu là nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Trải qua một khoảng thời gian dài hơn nửa thế kỷ, tiếng thơ ông đã có tác động sâu xa đến tư tưởng và tình cảm của độc giả nhiều thế hệ. Con đường thơ ấy là hành trình đi tìm và bắt gặp sự kết hợp diệu kỳ giữa Cách mạng và dân tộc trong nghệ thuật thơ ca. 

+ Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Tố Hữu là một bộ phận không thể thiếu trong vốn văn hóa tinh thần của quần chúng Cách mạng. Từ góc nhìn, thời điểm khác nhau, sẽ phát hiện những tầng ý nghĩa khác nhau của kho tàng nghệ thuật ấy. Có thể đôi chỗ còn thô ráp, thiếu sự gọt dũa cần thiết hoặc ồn ào, sáo mòn. Nhưng trên đại thể, bằng quan điểm cụ thể lịch sử và lập trường Cách mạng, hoàn toàn có thể khẳng định: thơ Tố Hữu là một giá trị. Tất nhiên, nó sẽ bất tử. 


( Sưu tầm )

Nét tài hoa của Tố Hữu trong việc sử dụng cặp đại từ xưng hô ta – mình ở bài thơ Việt Bắc



Nét tài hoa của Tố Hữu trong việc sử dụng cặp đại từ xưng hô ta –mình ở bài thơ Việt Bắc


Cặp đại từ xưng hô ta - mình là là cặp từ xưng hô quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca, mang sắc điệu trữ tình, đằm thắm, mặn nồng của tình cảm mà những đôi lứa yêu nhau dành cho nhau. Ở bài thơ Việt Bắc, viết về một sự kiện mang tầm lịch sử nhưng Tố Hữu đã lựa chọn cách mở đầu bằng một cuộc đối đáp mang âm hưởng dân ca và cách xưng hô ta - mình ngọt ngào đằm thắm. Điều đặc biệt là cách tác giả sử dụng cặp từ ta - mình trong bài thơ không chỉ một lần mà nó trở thành một điệp khúc trở đi trở lại, luyến láy hết sức tài hoa. 

Đoạn đầu bài thơ là lời của người ở lại với người ra đi, thể hiện tình cảm của người dân Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong buổi chia tay:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Chữ mình ở đây chỉ người ra đi, còn chữ ta để nói tới người ở lại. Tình cảm nhớ thương dồn nén sâu nặng trong chữ mình. Mỗi câu lục trong đoạn thơ chữ mình lặp lại hai lần cùng với nhiều thanh bằng làm nhịp thơ như trùng xuống, khắc khoải, da diết. Người ở lại đặt những câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhở người ra đi hãy nhớ về Việt Bắc, vừa thể hiện tình cảm sâu sắc, mặn nồng. Bốn chữ nhớ trong 4 dòng thơ nhắc nhớ về 15 năm kháng chiến và khung cảnh Việt Bắc. Cặp từ xưng hô mình – ta đầy tình tứ như xoắn quyện lấy nhau, vì là lời của người ở lại nên nhắc tới mình thì nhiều, nhắc tới ta thì ít. Chữ ta chỉ được nhắc đến một lần như một sự khiêm tốn để cho những kỉ niệm ùa về trong giây phút chia tay. Trong ca dao Việt Nam, cặp từ xưng hô mình –ta cũng khá quen thuộc, là cách xưng hô của những đôi lứa yêu nhau. Nhắc đến cặp từ này, người ta thường nhắc đến nỗi nhớ, đến sự gắn bó thủy chung:

Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai ai có nhớ mình chăng ai?
Một đàn cò trắng bay quanh
Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng
Mình về, mình nhớ ta chăng? 
Bao giờ cho hương bén hoa
Cho đào bén túi, cho ta bén mình
Thuyền không, đậu bến Giang Đình
Ta không, ta quyết lấy mình làm đôi 
Trăm năm ước bạn chung tình
Trên trời dưới đất, có mình có ta

Những câu thơ lục bát của Tố Hữu vận dụng nhuần nhuyễn cách nói của ca dao, dân ca. Cũng có thể nói đó là một lối tập ca dao mà đọc lên âm điệu thật tha thiết, ngọt ngào. Chất giọng Huế, chất giọng trữ tình thương mến ấy có lẽ chỉ tìm thấy ở tác giả Việt Bắc.

Đoạn thơ thứ hai của bài là lời đáp lại của người ra đi tạo nên sự cân xứng cho kết cấu đối đáp dân ca. Người ở lại nhớ nhung bao nhiêu thì người ra đi bâng khuâng, bồn chồn, lưu luyến bấy nhiêu:

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cần tay nhau biết nói gì hôm nay

Chữ ta, chữ mình không xuất hiện nhưng thực ra đã hóa thân vào tiếng ai tha thiết bên cồn, vào hình ảnh áo chàm giản dị mà đầy nghĩa tình cách mạng. Có cả mình, cả ta ở cái cầm tay như một nốt lặng của tình cảm trong buổi phân ly. Ở đây, chỉ có thứ ngôn ngữ không lời của ánh mắt mới đủ sức chứa đựng nỗi niềm của người đi, kẻ ở.

Sang đến đoạn ba và đoạn bốn cặp từ mình – ta được tác giả sử dụng hết sức tài hoa, luyến láy tạo nhạc tính cho đoạn thơ. 

Ở đoạn ba, cặp từ mình đi, mình về lặp đi lặp lại 6 lần trong 6 câu lục của đoạn thơ. Mình ở đây vẫn chỉ người ra đi.Và dù là mình đi hay mình về cũng chỉ chung một hành động. Đi là chia tay chiến khu, về là về miền xuôi thủ đô. Nét đặc sắc trong sự lặp lại của cụm từ này là không hề tạo ra sự nhàm chán cho người đọc bởi tiết tấu biến hóa: mình đi – mình về - mình về -mình đi:

Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về , có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng nhật, thưở còn Việt Minh

Và mỗi lần như vậy câu nào cũng gắn với từ nhớ. Người ở nhắc lại những kỉ niệm trong buổi đầu kháng chiến đầy khó khăn gian khổ mà sâu nặng ân tình. Tố Hữu cũng sử dụng triệt để thủ pháp đối trong những câu bát của đoạn thơ này tạo nhịp thơ vừa cân xứng hài hòa, vừa dễ đi vào lòng người. Kết thúc đoạn thơ là ba chữ mình trong một câu thơ độc đáo:

Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

Chữ mình ở đây vừa để chỉ người ra đi, vừa để nói tới người ở lại trong một sự hòa quyện khăng khít tuy hai mà một. Chữ nhớ trở thành một chiếc cầu nối giữa hai chữ mình càng làm tăng thêm sự da diết nhớ nhung trong tình cảm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Ta đã gặp ở đâu đó trong ca dao những cuộc chia tay và biết bao nỗi nhớ của người đi, người về như vậy:

Chàng về khuyên bạn nhất tâm
Trăm năm chớ có ôm cần thuyền ai 
Chàng về giẫm cội cho bền
Gió rung mặc gió, em không quên chàng

Tình cảm thủy chung son sắt của đôi lứa yêu nhau từ câu ca dao có bao đời nay đã đi vào những vần thơ cách mạng của Tố Hữu sao mà tự nhiên và ngọt ngào đến vậy. Ta có cảm tưởng lời của người ở lại cứ ngân nga dài mãi như sợi dây vô hình vấn vít lấy người ra đi: trong lòng ta, giờ chỉ có mình, sao nỡ ra đi?... 


Không lặp lại cách nói ở đoạn ba, đến đoạn bốn cặp từ mình – ta đắp đổi cho nhau một cách linh hoạt ta với mình, mình với ta tạo thành 2 vế cân xứng:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu

Mình với ta như một đôi không thể tách rời, để rồi hòa lại làm một Mình đi, mình lại nhớ mình. Đó chính là câu trả lời cho câu hỏi Mình đi, mình có nhớ mình ở đoạn thơ trước. Có thể nói sự nhắc lại này tô đậm hơn nữa sự gắn bó không thể tách rời giữa ta và mình, giữa cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc. Cuộc chia tay trở thành khúc hát đối đáp để bày tỏ tình cảm nhớ nhung, lưu luyến. Tình cảm ấy sẽ ở lại trong tim người dân Việt Bắc, và sẽ theo người cán bộ về xuôi. Nhưng dù đi đâu về đâu, tình cảm ấy không bao giờ vơi cạn. Bàn sâu hơn về chữ mình, ta cũng gặp khá nhiều trong ca dao:

Bây giờ hỏi thiệt anh Ba
Còn thương như cũ hay là hết thương?
Ban ngày dãi nắng tối lại dầm sương
Thân em lao khổ, mình có nhớ thương hỡi mình? 
Trầu không vôi ắt trầu lạt
Cau không hạt ắt là cau già
Mình không lấy ta ắt là mình thiệt
Ta không lấy mình ta biết lấy ai? 

Cách sử dụng từ mình của Tố Hữu vừa học tập ca dao, vừa có sự sáng tạo mới mẻ. Ca dao cũng nhắc nhiều tới từ mình trong một câu, nhưng thường hàm ý chỉ một người. Còn với Việt Bắc, chỉ chữ mình thôi có cả ta và mình trong sự thống nhất.

Qua bốn đoạn thơ đầu của bài thơ Việt Bắc, ta thấy cặp đại từ xưng hô ta –mình được tác giả sử dụng khá nhuần nhuyễn, thành thục, tài hoa, lặp lại nhưng không vô vị, luyến láy mà không nhàm chán, thống nhất mà rất linh hoạt. Thể thơ lục bát, phép điệp, phép đối hài hòa...Tất cả tạo nên một cuộc đối đáp đầy tâm trạng giữa người ở lại và người ra đi. Có thể nói đây là một minh chứng rõ nét cho chất trữ tình chính trị, chất dân tộc đậm đà của ngòi bút Tố Hữu


Trong những đoạn khác của bài Việt Bắc, cặp từ ta – mình vẫn được tác giả sử dụng một cách tài tình và khéo léo, tô đậm nghĩa tình của người dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, khắc sâu nỗi nhớ của người cán bộ khi phải chia tay chiến khu, đồng thời dựng lại một thời kì kháng chiến gian khổ mà hào hùng ở chiến khu Việt Bắc: 

Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng... 
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người... 
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào... 
Mình về với Bác miền xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ người
Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường...

Ta – mình là điệp khúc hay nhất, trữ tình nhất trong Việt Bắc – một khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến một thời. 
(TheoTrần Tuấn Ngọc-Trường THPT số 2 Bát Xát-Xã Bản Vược, Bát Xát, Lào Cai)

Đáp án đề thi môn LÝ khối A năm 2012 mã đề 196, 371, 527, 683, 749, 985


Đáp án đề thi môn LÝ khối A năm 2012 mã đề 196, 371, 527, 683, 749, 985 của các thầy cô giáo bộ môn ly và đáp án đề thi VẬT LÝ khối A năm 2012 của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo:


+ Mã Đề 196:
1.C - 2.B -3.C - 4.C - 5.B - 6.B - 7.A - 8.A - 9.A - 10.D
11.B - 12.A - 13.B - 14.A - 15.C - 16.A - 17.C - 18.D - 19.A - 20.B
21.C - 22.D - 23.B - 24.D - 25.B - 26.D - 27.A - 28.C - 29.A - 30.D
31.A - 32.B - 33.A - 34.B - 35.B - 36.B - 37.A - 38.C - 39.A -40.D
41.D - 42.D - 43.D - 44.C - 45.C - 46.C - 47.B - 48.B - 49.D - 50.C
51.A - 52.D - 53.B - 54.B - 55.B - 56.D - 57.D - 58.C - 59.A - 60.A


+ Mã Đề 371:
1.D - 2.D -3.C - 4.B - 5.A - 6.C - 7.D - 8.D - 9.C - 10.D
11.C - 12.B - 13.A - 14.A - 15.C - 16.D - 17.C - 18.B - 19.C - 20.A
21.B - 22.A - 23.D - 24.C - 25.D - 26.A - 27.B - 28.C - 29.B - 30.A
31.A - 32.D - 33.B - 34.C - 35.D - 36.C - 37.C - 38.C - 39.A -40.D
41.B - 42.C - 43.C - 44.C - 45.B - 46.D - 47.C - 48.B - 49.B - 50.A
51.B - 52.C - 53.D - 54.D - 55.C - 56.A - 57.D - 58.A - 59.A - 60.B
+ Mã Đề 683:
1.B - 2.D -3.B - 4.B - 5.C - 6.B - 7.B - 8.D - 9.C - 10.C
11.A - 12.B - 13.B - 14.C - 15.A - 16.A - 17.B - 18.D - 19.D - 20.D
21.A - 22.B - 23.A - 24.A - 25.C - 26.A - 27.B - 28.C - 29.C - 30.B
31.B - 32.A - 33.A - 34.B - 35.B - 36.A - 37.D - 38.D - 39.D -40.C
41.B - 42.B - 43.B - 44.C - 45.A - 46.D - 47.C - 48.B - 49.B - 50.B
51.A - 52.C - 53.B - 54.D - 55.D - 56.C - 57.D - 58.A - 59.B - 60.C


+ Mã Đề 749:
1.C - 2.A -3.B - 4.D - 5.B - 6.A - 7.D - 8.C - 9.B - 10.B
11.C - 12.B - 13.D - 14.C - 15.B - 16.D - 17.D - 18.B - 19.D - 20.D
21.B - 22.A - 23.D - 24.A - 25.A - 26.D - 27.B - 28.A - 29.B - 30.D
31.A - 32.A - 33.C - 34.D - 35.C - 36.B - 37.B - 38.C - 39.A -40.D
41.A - 42.A - 43.A - 44.D - 45.A - 46.A - 47.D - 48.B - 49.C - 50.A
51.B - 52.A - 53.C - 54.C - 55.C - 56.B - 57.C - 58.C - 59.D - 60.C

+ Mã Đề 958:
1.D - 2.C -3.A - 4.A - 5.A - 6.D - 7.C - 8.D - 9.D - 10.C
11.C - 12.B - 13.C - 14.D - 15.B - 16.C - 17.A - 18.A - 19.C - 20.A
21.A - 22.D - 23.C - 24.B - 25.B - 26.C - 27.C - 28.B - 29.A - 30.D
31.C - 32.B - 33.B - 34.C - 35.D - 36.A - 37.A - 38.D - 39.C -40.B
41.D - 42.A - 43.C - 44.C - 45.B - 46.D - 47.D - 48.A - 49.B - 50.D
51.D - 52.D - 53.A - 54.C - 55.B - 56.A - 57.B - 58.A - 59.D - 60.B


+ Mã Đề 527:














Đáp án đại học môn Hóa khối A năm 2012 ( đầy đủ mã đề)


































Đáp án đề thi môn Hóa khối A năm 2012











TRÊN ĐÂY LÀ ĐÁP ÁN THAM KHẢO

ĐÁP ÁN CỦA BỘ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO VẪN ĐANG CẬP NHẬT

Jul 4, 2012

Hướng dẩn chèn comment của facebook vào blogspot

Facebook đã trở nên phổ biến và quen thuộc mỗi khi chúng ta muốn lên đây để ... "chém gió". Và hôm nay mình sẽ hướng dẫn cho các bạn đem cái công cụ "chém gió" này vào blog của các bạn. Với việc thay thế comment của blogspot bằng comment của facebook hy vọng blog của các bạn sẽ sôi động hơn.


Có thể nói thủ thuật chèn comment của facebook vào mỗi bài viết blogspot cũng không mới lạ gì, 1 số blog thủ thuật nước ngoài đã đăng tải rồi (các bạn có thể vào google search với từ khóa facebook comments for blogger là có kết quả ngay). Tuy nhiên phải nói là cách thực hiện nó cũng khá phức tạp. Ngay cả mình cũng chưa thực hiện thành công khi làm theo các bước hướng dẫn. Có lần mình đã cố thử vào trang http://developers.facebook.com/setup/ mà không được, không biết có phải facebook hạn chế đối với user ở Viện Nam ko nữa.

Và ở thủ thuật này, các bạn sẽ chỉ cần copy và paste code là xong, không cần phải thiết lập hay tạo App trên facebook.

Xem DEMO dưới bài viết này

Bước đầu tiên bạn phải làm là đóng comment của blogger lại( có thể bỏ qua bước này). Các bước thực hiện như hình bên dưới :


- Save cài đặt lại.

Bước 2 : chèn code của thủ thuật vào template.
1. Vào phần thiết kế -> chỉnh sửa code HTML -> nhấp chọn mở rộng mẫu tiện ích.
2. Chèn đoạn code bên dưới vào trước thẻ đóng </head>
<script type='text/javascript'>
//<![CDATA[
var purl= location.href;
var fb_href = purl.substring(0,purl.indexOf(".html")+5);
var fbcm ='<div class="fb-comments" data-href="'+fb_href+'" data-num-posts="5" data-width="660"></div>';
//]]>
</script>
- data-width là độ rộng của comment box.
- data-num-posts là số comment được hiển thị (cũng chính là số bài reply trên 1 comment)
- data-href là để phân biệt từng comment box, mỗi địa chỉ data-href khác nhau sẽ cho 1 comment box khác nhau. và trong thủ thuật này data-href chính là link của mỗi bài viết.

3. Chèn đoạn code bên dưới vào sau thẻ <body>
<div id='fb-root'/>
<script>(function(d, s, id) {
var js, fjs = d.getElementsByTagName(s)[0];
if (d.getElementById(id)) {return;}
js = d.createElement(s); js.id = id;
js.src = &quot;//connect.facebook.net/en_US/all.js#xfbml=1&quot;;
fjs.parentNode.insertBefore(js, fjs);
}(document, &#39;script&#39;, &#39;facebook-jssdk&#39;));</script>

4. Tìm đoạn code như bên dưới :

<b:include data='post' name='post'/>


5. Chèn ngay sau nó đoạn code bên dưới :
<b:if cond='data:blog.pageType == &quot;item&quot;'>
<script type='text/javascript'>
document.write(fbcm);
</script>
</b:if>

6. Save template.

Chúc các bạn thành công.

Sưu tầm