Jul 3, 2012

Bình luận ngắn về tên bài Tuyên Ngôn Độc Lập



BÌNH LUẬN NGẮN VỀ TÊN BÀI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

Tuyên ngôn Độc lập là áng thiên cổ hùng văn. Nó cùng với bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi lập nên hệ thống Tuyên ngôn Độc lập của đất nước này trong suốt chiều dài lịch sử. Ta bắt gặp ở đây, một tư duy khoa học sắc sảo và đầy trí tuệ của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Ta cũng bắt gặp ở đây cảm xúc công dân đầy nhiệt huyết của Bác kính yêu. Tuyên ngôn độc lập nổi trội lên cái chất thép rất rắn, rất cứng, rất dẻo của dũng khí Hồ Chí Minh. Là lời tuyên ngôn, là áng văn nghị luận nên tiêu chuẩn hàng đầu phải đảm bảo được tính trí tuệ, khoa học. Vì thế, thông qua hệ thống lập luận thật chặt chẽ, thông qua sự phân tích lí giải và giọng văn hùng hồn thì văn bản này mới có tính tuyên ngôn. Dĩ nhiên tuyên ngôn ở đây không phải là tuyên ngôn nghệ thuật như Đôi mắt của Nam Cao, tuyên ngôn về quan niệm sống phải có tài, có khí phách và có tâm như nhân vật Huấn Cao của Nguyễn Tuân… Đây là tuyên ngôn nói với mọi người Việt Nam, với tất cả nhân loại tiến bộ, nói với cả kẻ thù của chúng ta là Pháp và Mĩ về sự thật lịch sử: Đó là nền độc lập dân tộc Việt Nam có quyền được hưởng để người dân Việt Nam mưu cầu hạnh phúc… Tuy nhiên trên phương tiện văn chương tác phẩm của Hồ Chí Minh không chỉ là một áng văn nghị luận, đằng sau những câu chữ để phát ngôn những chân lí lớn lao của thời đại ta bắt gặp trái tim của người công dân số một, của lãnh tụ, của Bác Hồ Chí Minh. Chính lập trường dân tộc (đứng về phía nhân dân, dân tộc mình để nhìn rõ tội ác tày trời của thực dân đế quốc…) đã chi phối tình cảm của người viết. Bác rất phẫn nộ khi lôi chế độ thực dân phong kiến để công khai nó trước tòa án lịch sử, Bác rất đau xót khi đưa ra những minh chứng về thảm cảnh của dân tộc ta, nhân dân ta phải làm kiếp trâu ngựa, Bác mỉa mai kẻ thù, mô tả sự sụp đổ không cưỡng được của chúng bằng chất văn giàu hình tượng “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, “nhân vật” thực dân Pháp thật đáng mỉa mai và thảm hại, đáng khinh bỉ biết bao nhiêu khi mở cửa và quì gối dâng nước ta hai lần cho giặc, sức mạnh của Tuyên ngôn Độc lập chủ yếu bộc lộ qua những lời tuyên ngôn đầy hào khí, đầy chất thép. Nó hả hê và rất nghiêm trang, nó có niềm vui như muốn cười ré lên đầy nước mắt, những cũng có sự cảnh giác dè dặt, tỉnh táo để răn đe những kẻ đang rắp tâm cướp nền độc lập của đất nước Việt Nam mà nhân dân Việt Nam đã phải trả giá bằng máu xương.

Đây là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới , đánh dấu một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập tự do cho một dân tộc bất khuất kiên cường. Nó đánh dấu thắng lợi đầu tiên của một nước thuộc địa châu Á. Mặt khác, bản Tuyên ngôn còn là một áng văn chính luận mẫu mực, đanh thép lôi cuốn ở tỉ lệ và lập luận chặt chẽ, ở từ ngữ, hình ảnh dễ cảm, chính xác, mạnh mẽ, ở câu văn gọn và sắc, giản dị mà hùng hồn, đã vừa cảnh cáo, vạch mặt kẻ thù, vừa khích lệ, động viên tinh thần nhân dân, và tranh thủ sự đồng tình quốc tế.


Bài viết sưu tầm

Nguyên tác và bản dịch "Nhật kí trong tù"



NGUYÊN TÁC VÀ BẢN DỊCH "NHẬT KÝ TRONG TÙ" - NHỮNG CÂU CHUYỆN NHỎ

Hoàng Quảng Uyên



Đã 49 năm trôi qua, sắp tròn nửa thế kỷ nhật ký trong tù - Tập nhật ký thơ viết bằng chữ Hán của chủ tịch Hồ Chí Minh được dịch, in (năm 1960). Đã có biết bao bài viết, công trình nghiên cứu về tập thơ này nhưng vẫn còn những điều cần tìm hiểu, giải mã. Chẳng hạn như bài tân xuất ngục, học đăng sơn (mới ra tù, tập leo núi) không có trong nguyên tác tại sao và bằng cách nào lại có trong bản dịch? Vẫn còn có một số bài dịch và giảng chưa trúng (Nếu không muốn nói là sai!) như bài lai tân, được giảng dạy trong chương trình ngữ văn lớp 11: sách giáo khoa đã ép giáo viên và học sinh hiểu một cách khiên cưỡng (sai !) ý của bài thơ .v.v... Nhân cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tôi xin góp đôi câu chuyện nhỏ để hiểu thêm, hiểu đúng nhật ký trong tù. Đây chỉ là những chuyện nhỏ chứ không phải là những khám phá, phát hiện to tát gì !
Có một văn bản quí đang ... ngủ !

Trong lần in đầu tiên tập nhật ký trong tù (tháng 4 - 1960) nhà xuất bản văn học đã in kèm bài tân xuất ngục, học đăng sơn với lời chú: Bài thơ này không có trong tập Nhật ký trong tù vì sáng tác sau lúc Hồ Chủ Tịch ra khỏi nhà lao. Về sau tất cả các bản in nhật ký trong tù của các nhà xuất bản khác đều có in bài này, và như một lẽ... tự nhiên, tân xuất ngục, học đăng sơn là bài thơ không thể thiếu trong nhật ký trong tù! Tò mò một chút, ta có thể đặt câu hỏi: những người làm sách nhật ký trong tù lấy đâu ra bài tân xuất ngục, học đăng sơn để in trong lần xuất bản đầu tiên?”.

Về bài thơ này, ít nhất đã có hai lần chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến. Trong bài viết Quyển Nhật ký trong ngục của Bác, in trên báo nhân dân ngày 19 - 5 - 1957, Nguyễn Tâm (Một bút danh của Bác Hồ) đã viết: bị giam ở Liễu Châu hơn một năm rưỡi, tóc bị bạc, răng bị long, mắt bị kém, chân bị yếu. Bác tự bảo: Hoạt động cách mạng bí mật mà chân cẳng yếu, là một điều rất nguy hiểm. Bác quyết tâm tập đi, cứ mỗi ngày thêm vài bước. Rồi tập trèo núi, cứ mỗi ngày thêm vài bước. Có lúc mệt quá nhưng cũng cố bò cho đủ mức đã định. Mấy tháng tập luyện, hôm lên đến đỉnh núi, Bác làm một bài thơ chữ Nho, mong gửi tin về nước. Xin tạm dịch thơ ấy như sau:

Mây ngoài mây, núi ngoài làn núi
Lặng như gương, không bụi, lòng sông,
Bốn bề phong cảnh mênh mông
Nhìn về tổ quốc bận lòng cố nhân”


Trong cuốn vừa đi đường vừa kể chuyện (nhà xuất bản Sự thật - Hà Nội - 1963). T.Lan (bút danh của Bác Hồ) cũng nói về chuyện leo núi: Khi được thả ra mắt Bác nhìn kém, chân bước không được, Bác quyết tâm tập đi, mỗi ngày 10 bước, dù đau mà phải bò, phải lết cũng phải được 10 bước mới thôi. Cuối cùng chẳng những Bác đi vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên đến đỉnh núi, Bác cao hứng làm một bài thơ chữ Hán như sau:

Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như cánh tĩnh vô trần
Bồi hồi độc bộ, Tây phong lĩnh
Nam vọng trùng dương, ức cố nhân.


Bác chỉ nhớ bài thơ đó. Chúng tôi cố hết sức chỉ tạm dịch như thế này:

Mây ôm núi, núi ôm mây
Lòng sông sạch chẳng mảy may bụi hồng
Bùi ngùi dạo đỉnh Tây phong
Trông về cố quốc, chạnh lòng nhớ ai !


Nhắc lại những điều này, tôi muốn nói rằng: Bác rất tâm đắc và rất nhớ bài thơ tân xuất ngục, học đăng sơn (mặc dù mỗi lần nhớ lại Bác có đổi, sửa vài chữ - tôi sẽ nói kỹ ở một bài khác), nhưng chắc chắn Viện Văn học không thể tuỳ tiện lấy bài thơ từ bài của Nguyễn Tâm, lại càng không thể lấy từ bài của T.Lan. Vậy thì lấy ở đâu ra ?

Câu hỏi ấy cứ bám riết tôi trong một thời gian dài, cho đến một ngày, tôi may mắn được tiếp cận kho tư liệu về Nhật ký trong tù lưu giữ tại Viện Văn học. Trong rất nhiều tài liệu quí, tôi đặc biệt chú ý tới một văn bản được đánh máy trên 2 tờ giấy pơ luya trắng hồng; đó là công văn của Viện Văn học gửi Bác Hồ, xin hỏi thêm vài điểm về một số chữ trong các bài thơ: ngọ hậu, quả đức ngục, tảo giải, điệt lạc, lai tân. Nhận được công văn, Bác Hồ đã dùng bút chì xanh đỏ gạch chéo những chữ không dùng, rồi Người chợt nhớ và viết vào khoảng trống của tờ công văn một bài thơ chữ Hán, sau đó Người gửi trả lại Viện Văn học. Bài thơ đó chính là bài tân xuất ngục, học đăng sơn. Viện Văn học đã nhanh chóng dịch, in bài thơ này vào nhật ký trong tù. Đơn giản vậy thôi nhưng nếu không có một chút may mắn (và tình cờ), tôi không thể tìm được câu trả lời tự mình đặt ra và văn bản đó vẫn... chìm trong giấc ngủ! Nay tôi gửi bản chụp bút tích toàn bộ bài thơ Tân xuất ngục, học đăng sơn (4 câu) cho độc giả yêu quí. Hy vọng một ngày nào đó toàn bộ văn bản kể trên sẽ... tỉnh giấc!

Năm 2006, nhận nhiệm vụ của Hội Nhà Văn Việt Nam và Báo Cao Bằng, tôi đã có một chuyến khảo sát dài ngày theo bước chân của người tù Hồ Chí Minh trên đất Quảng Tây. Trước khi đi, anh Hữu Thỉnh dặn đi, dặn lại: Qua đấy, Uyên nhớ thu thập tài liệu, hiện vật liên quan đến Bác. Tôi hứa: Em sẽ cố . Hứa vậy thôi, chắc gì còn sót lại phần mình, sau ngần ấy năm! Sau chuyến công tác, tôi nộp cho Bảo tàng văn học Việt Nam một An bum ảnh gần 30 ảnh cỡ 20 x 30, chụp những địa điểm Bác đã ở tù, cùng một số tư liệu. Tiện tay tôi kèm vào bản chụp bút tích Tân Xuất Ngục, Học Đăng Sơn và đề xuất ý kiến với Chủ tịch hội Nhà văn Việt Nam: Bảo tàng văn học Việt Nam có được văn bản đó trưng bày thì tuyệt quá. Anh Hữu Thỉnh bảo: Mình sẽ liên hệ với Viện Văn học!. Không biết anh Hữu Thỉnh có còn nhớ không?! Bây giờ nghĩ lại, những tư liệu tôi thu được, nộp cho Hội nhà văn, nếu có một chút giá trị thì giá trị nhất có lẽ là bản chụp tài liệu từ Viện Văn học. Hoá ra của quí ở ngay gần ta, cần gì đi xa tìm kiếm!

Đi tìm Tây Phong Lĩnh.
Vẫn trong mạch tìm hiểu tân xuất ngục, học đăng sơn trong một chuyến đi Trung Quốc, đến thành phố Liễu Châu vào buổi tối tôi đề nghị với phó Giáo sư Ôn Kỳ Châu, chuyên viên nghiên cứu văn hoá, Cục văn hoá Liễu Châu: Đưa tôi lên Tây Phong Lĩnh nhé. Phó giáo sư Ôn Kỳ Châu gật đầu đồng ý. Sáng hôm sau, trời mưa nhỏ, xe của Cục văn hoá đến đón tôi và giáo sư Mã Kim án (người bạn đồng hành, công tác tại Viện khoa học xã hội tỉnh Quảng Tây). Xe vượt qua cầu Liễu Giang, đi về phía Tây, đến đại lộ Liễu Thạch, phía xa hiện ra một ngọn núi thấp, xanh màu cây lá. Phó giáo sư Ôn Kỳ Châu bảo: Núi Ngư Phong - Tây Phong Lĩnh đó. Ngư Phong giờ đã là một điểm du lịch hấp dẫn của thành phố Liễu Châu. Con đường nhỏ dẫn lên đỉnh núi uốn lượn, lát bằng những phiến đá to, trông rất cổ. Cứ khoảng 50m lại có một chòi nghỉ thoáng đãng, sạch sẽ. Tôi vừa đi vừa tìm góc chụp để bấm máy, một chốc đã lên tới đỉnh (cách mặt đất khoảng 200m). Mưa mỗi lúc một nặng hạt, tôi men ra mép đá mong chụp được một bức ảnh như Bác Hồ đã tả Lòng sông gương sáng, bụi không mờ. Tôi loay hoay trong mưa bụi đứng lặng trên đỉnh Ngư Phong ngắm đất trời Liễu Châu, nhìn về phía trời Nam xa xôi vẳng nghe tiếng thơ Bác: Vân ủng trùng Sơn, Sơn ủng vân....

Xuống núi, chúng tôi vào thăm nhà lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh ở Liễu Châu, đặt tại ngôi nhà trước đây Bác Hồ đã ở, cách chân núi Ngư Phong chỉ vài chục mét. Ngọn núi mà Bác đã tập leo chắc chắn là ngọn Ngư Phong! Nhưng tại sao Bác gọi Ngư Phong là Tây phong Lĩnh? Phó Giáo sư Ôn Kỳ Châu giải thích: Phong Lĩnh là ngọn núi thấp, Tây là phía Tây: Tây Phong Lĩnh là ngọn núi thấp ở phía Tây, đối diện với Trụ sở Cục chính trị đệ tứ chiến khu - phía Đông, nơi Bác bị giam giữ, trước khi chuyển sang nơi ở mới dưới chân núi Ngư Phong. Tôi chợt nghĩ thêm: Vì nguyên tắc bí mật trong hoạt động Cách mạng nên trong thư gửi về cho các đồng chí của mình trong nước (kèm bài thơ Tân xuất ngục, học đăng sơn), Bác không thể (và không dại gì) nói rõ mình đang ở núi Ngư phong, thành phố Liễu Châu mà chỉ nói là Ngọn núi thấp ở phía Tây. Chung chung thế thôi và có lẽ vì thế mà thơ hơn chăng!


Nhật ký trong tù trong sách Ngữ văn.
Ngay từ năm đầu nhật ký trong tù được công bố, một số bài thơ trong nhật ký trong tù đã được đưa vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Từ bấy đến nay, chưa khi nào nhật ký trong tù vắng mặt trong sách giáo khoa. Những bài thơ được chọn giảng thay đổi qua các thời kỳ. Đầu tiên là những bài đậm chất chính trị như: Bốn tháng rồi, Giải đi sớm, Không ngủ được... Sau đó là những bài: Nghe tiếng giã gạo, Học đánh cờ, cảm tưởng đọc Thiên gia thi... và gần đây là những bài đậm chất thơ như: Chiều tối, Lai tân, Mới ra tù tập leo núi... Có thể ở một phương diện nào đó, nhìn vào sự thay đổi các bài thơ giảng dạy trong các trường phổ thông sẽ thấy được một phần thiên hướng của nền văn học cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua. Đây là gợi ý cho nội dung chính của một luận án tiến sĩ trong tương lai ! Tại sao không !.

Trong việc giảng dạy nhật ký trong tù mấy chục năm qua những người soạn sách ít chú ý tới thể loại của tác phẩm là Nhật ký có thể nói rằng quyển Nhật ký ấy là một đoạn trong lịch sử hơn 40 năm đấu tranh cách mạng của Bác Hồ (Nguyễn Tâm), nên soạn chưa được sát (có nhiều chỗ sai). Về vấn đề này tôi đã có một bài viết khá kỹ, đăng trên báo Tiền phong từ năm 2006, chỉ ra ít nhất 8 chi tiết chưa chính xác trong bài soạn Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh trong sách giáo khoa thí điểm lớp 11, Ban khoa học - xã hội và nhân văn, tập 2, bộ 1, tổng chủ biên Trần Đình Sử (nhà xuất bản giáo dục, tháng 8 - 2005). Đến nay, xem sách giáo khoa, thấy vẫn nguyên xi! (Trong một buổi giảng ở trung tâm bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du, tôi có nói về bài Lai Tân với giáo sư Trần Đình Sử, ông bảo: “Đó cũng là một cách đọc”). ở bài này tôi không nhắc lại chuyện cũ mà chỉ bàn thêm về bài giảng Lai tân trong sách Ngữ văn lớp 11.

Lai tân, giảng thế nào cho đúng? Khó mà dễ.

Lai tân
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.


Nam Trân dịch

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Chong đèn huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.


Trong bản dịch nhà thơ Nam Trân đã dịch chữ Thiêu đăng (nghĩa là đốt đèn) thành chong đèn (điểm đăng). Việc thay đổi chữ này đã hướng người đọc theo cách hiểu khác. (Cộng thêm chữ Biện công sự (làm công việc) được các nhà phân tích nắn thành làm việc công) đủ dựng lên hình ảnh một ông huyện trưởng mẫn cán, làm việc công tới tận khuya mà lơ là vịêc giám sát cấp dưới. Đó là một ông quan chăm chỉ, nhưng quan liêu! Trên cơ sở bản dịch có người đã tán: Ngài (huyện trưởng) rất có thể là một quan huyện mẫn cán, chứng cớ là đêm đêm “ngài” vẫn thức khuya để phê duyệt văn án đấy thôi. Nhưng người ta có quyền nghi ngờ cái công minh, chính trực của ngài lắm, vì thần thiêng tại bộ hạ, các ông ban trưởng, cảnh trưởng dưới quyền ngài đều ngang nhiên phạm pháp, có thể nói ngay trước mũi ngài. Ngài quan liêu chăng, hay ngài bảo kê cho những trò ấy?” (Báo văn nghệ số 21, ngày 25/5/2002). Đọc các bài soạn của các nhà soạn sách tôi thấy họ đã có một chút lấn cấn khi giảng câu 3: Chẳng nhẽ ban trưởng, cảnh trưởng xấu xa, thối nát như vậy mà lại trồi ra một ông huyện trưởng mẫn cán Chong đèn làm việc công tới khuya! Có lô gíc, có liền mạch với câu 1, câu 2 không? Lại nghe ai đó nói câu 3 có nghĩa là: Huyện trưởng đốt đèn hút thuốc phiện, bèn giảng thế này: Chong đèn, nguyên văn thiêu đăng là đốt đèn (có ý kiến cho là đốt đèn hút thuốc phiện). (Sách ngữ văn lớp 11 - Phan Trọng Luận chủ biên - in tháng 1 năm 2009). Còn trong sách Để học tốt môn Văn (in tháng 2/2009). Tác giả Trần Văn Sáu, Trần Tước Nguyên giảng câu 3: Chong đèn làm việc công có thể hiểu chăm chỉ làm việc công, cũng có thể hiểu là chong đèn hút thuốc phiện. Và nữa, sách dùng cho giáo viên, Trần Đình Sử chủ biên, giảng câu 3: Huyện trưởng đốt đèn làm việc công (tức là hút thuốc phiện - theo Đặng Thai Mai và Hoàng Trung Thông)”.

Dẫn ra một vài cách giảng câu 3 trong bài Lai Tân để chỉ rằng các nhà làm sách, các nhà lý luận - phê bình phần nào đã nhận ra sự không ổn khi cho rằng câu 3 tả một ông huyện trưởng mẫn cán (nhưng quan liêu để cấp dưới làm bậy). Nhưng bảo là phải hiểu câu 3 có nghĩa là: Huyện trưởng đốt đèn hút thuốc phiện thì không có sơ sở vì chỉ nghe nói thôi. Do vậy lối giảng nước đôi là việc dễ hiểu và có thể chấp nhận được.

Tại sao có tình hình như thế? Khởi đầu là từ nhà thơ Nam Trân dịch Thiêu đăng (có nghĩa là đốt đèn) thành chong đèn. Với một học giả uyên thâm như Nam Trân không thể có sự nhầm lẫn ngớ ngẩn ấy được. Thế thì, tại sao lại “nhầm”?
Truy ngược lên trên, xin bạn đọc nhớ lại công văn Viện Văn học gửi Bác Hồ xin ý kiến đã nói ở phần 1 bài viết này. Trong phần hỏi về bài Lai Tân, nguyên văn như sau:

Về bài Lai Tân (Số 86 - trang 24) câu thứ 3:

Huyện trưởng Thiêu đăng biện công sự.

Theo đồng chí tuỳ viên văn hoá Trung Quốc thì ở Trung Quốc câu này trước hết có nghĩa là: Huyện trưởng đốt đèn hút thuốc phiện.

Để trả lời, Bác Hồ đã dùng bút chì xanh, đỏ gạch 3 chữ hút thuốc phiện đi, viết thay vào 2 chữ làm việc (Lưu ý là Bác Hồ không viết làm việc công hay làm công việc.)

Cách trả lời của Bác Hồ đậm tính ngoại giao. Anh không muốn xấu mặt vì có ông huyện trưởng hút thuốc phiện thì gạch chữ hút thuốc phiện đi, còn trong nguyên tác vẫn là huyện trưởng thiêu đăng biện công sự không hề sửa. Khi nhật ký trong tù được in bằng chữ Hán, độc giả Trung Quốc hiểu theo truyền thống văn hoá và ngôn ngữ Trung Quốc thế nào là quyền của họ.
Chắc chắn là nhà thơ Nam Trân nghiên cứu rất kỹ ý kiến trả lời của Bác Hồ, thấy Bác gạch chữ hút thuốc phiện đi, dịch giả đã bằng mọi cách làm cho không còn bóng dáng hút thuốc phiện trong bài thơ nên đã dịch thiêu đăng thành chong đèn, và rồi những người giảng sau đó còn tích cực hơn biến chữ làm việc của Bác Hồ thành làm công việc, làm việc công. Nếu ta dịch ngược câu Huyện trưởng chong đèn làm việc công cho người Trung Quốc đọc thì với câu chữ đã thay như thế họ sẽ không thể luận nổi câu đó nghĩa là: Huyện trưởng đốt đèn hút thuốc phiện.

Trong lần chuyện trò với nhà văn Phùng Nghệ, chủ tịch Hội nhà văn Quảng Tây (Trung Quốc), tôi đọc bài LAI TÂN cho Phùng Nghệ nghe và hỏi ông về câu: Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự. Phùng Nghệ bảo: Đó là tiếng lóng của vùng Quảng Tây hay dùng để chỉ việc hút thuốc phiện. Sau này, tôi có nói chuyện “hút thuốc phiện” với nhà văn, dịch giả Trần Đình Hiến trong một cuộc “tào lao” ở ban sáng tác Hội nhà văn Việt Nam. Ông bảo: ừ, phải, phải, Trung Quốc có cả một quyển từ điển tiếng lóng, dày lắm, để mình về tra cứu!

Sự việc chỉ đơn giản như vậy. Câu huyện trưởng thiêu đăng biện công sự, người Trung Quốc hiểu là huyện trưởng đốt đèn hút thuốc phiện đã được ghi bằng giấy trắng, mực đen chứ không chỉ là nghe nói nữa (ý kiến của tuỳ viên văn hoá đại sứ quán Trung Quốc có thể đủ làm chứng cứ) và khi Bác Hồ viết bài LAI TÂN cũng là viết với ý ấy, vậy thì cớ gì người Việt Nam không được giảng theo ý ấy! Phải giảng như thế thì mới thấy được cái tầm của bài thơ, thấy lô gích của bài thơ mà không bị gợn. Qua đó ta hiểu thêm thơ Bác, hiểu thêm về nghệ thuật của bài thơ (mỉa mai, trào lộng, châm biếm một cách kín đáo, sâu cay): Sau khi vạch mặt bọn quan lại Tưởng Giới Thạch: Đánh bạc, ăn tiền, hút sách nhà thơ hạ một câu xanh rờn: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình! Ta càng thấy Bác Hồ hiểu phương ngữ và tiếng lóng Trung Quốc để đưa vào thơ thật đúng và đắt. Vậy thì cần phải giảng cho học sinh đúng nghĩa của câu thơ này để thấy sự thối nát “toàn diện” của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Chứ giảng “nước đôi” như trong sách giáo khoa là quá khiên cưỡng và chưa thấy hết “nghệ thuật châm biếm, hài hước” trong bài thơ tuyệt hay của Bác và giảng như thế ta càng thấy Bác Hồ yêu thơ dân tộc, hiểu văn học cổ điển nước nhà như thế nào. Dù bôn ba hải ngoại 30 năm tìm đường cứu nước Bác chưa lúc nào quyên truyện Kiều, Chinh phụ ngâm… Hãy so sánh câu: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình” với câu mở đầu Truyện Kiều:

Rằng, năm Gia Tĩnh triều Minh

Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

(Phẳng lặng, vững vàng mà đầy bọn tú bà, thằng bán tơ, Mã Giám Sinh, Sở Khanh...)

Lai Tân rặt bọn quan lại thối nát (đánh bạc, ăn tiền, hút thuốc phiện) mà vẫn thái bình ư - thật nực cười, chua chát lắm thay!?
Năm 2010, kỷ niệm 50 năm, nhật ký trong tù được dịch, in lần đầu tiên. Đó là một dịp là một mốc cho chúng ta nhìn lại, nghiên cứu, chỉnh sửa (kể cả dịch lại) nhật ký trong tù, để có một văn bản hoàn hảo, chính xác. Như thế là Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn.
ST

Chất thép trong thơ "Hồ Chí Minh "


Chất thép trong thơ "Hồ Chí Minh " 



Về " Chất thép" trong thơ Hồ Chí Minh Thời gian gần đây, trên báo chí xuất hiện nhiều quan niệm hạ thấp chức năng, vai trò xã hội của văn học, nghệ thuật (chẳng hạn như quan niệm văn học, nghệ thuật chỉ là nỗi buồn đau và đề cao quá đáng “sức mạnh của nỗi buồn” (!); hoặc nói rằng văn nghệ chẳng bao giờ là “vũ khí” gì cả ! v.v…) và thực tế là trên văn đàn đầy những tiếng rên rỉ bất lực (chứ không phải là nỗi buồn có sức mạnh như các thi sĩ lãng mạn cách mạng trước đây : “Buồn ta ấy lửa đang nhen – buồn ta ấy rượu lên men say nồng !”…). Nếu như trước đây, chúng ta có lúc cực đoan trong việc thể hiện cái anh hùng, cái cao cả thì có thể nói, giờ đây người ta lại rơi vào cực đoan khác : giọng điệu bi lụy (chứ không phải là bi kịch theo ý nghĩa mỹ học của từ này) dường như trở thành “gam” chủ đạo !...

Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên, trong bài viết này, chúng ta hãy tìm hiểu quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ, chủ yếu ở khía cạnh thiên chức của văn nghệ sĩ . 

Khi nói về mặt trận văn hóa văn nghệ, điều quan trọng hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh là thiên chức của văn nghệ sĩ. Về vấn đề này, sau khi bài thơ Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi” của Người được công bố, người ta coi đó là tuyên ngôn nghệ thuật của Người và đó cũng là ý tưởng lớn cấu thành đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng. Tuy nhiên, do cách dịch bài thơ chưa hết ý nên đã xảy ra sự hiểu sai lệch quan niệm của Người. Nguyên văn bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bằng chữ Hán như sau :
Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ
Sơn, thủy, yên, hoa,tuyết,nguyệt, phong.
Hiện đại thi trung ưng hữu thiết
Thi gia đã yếu hội xung phong.

Bản dịch Nhật ký trong tù của Viện Văn học (NXB Văn học, 1960) dịch là :
Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp (1)
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông .
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong .
Bản dịch này đã trở thành quen thuộc, được giảng dạy ở trường phổ thông cũng như đại học và hầu như được nhắc đến ở mọi bài viết khi đề cập đến thơ Hồ Chí Minh, đến tư tưởng văn hóa văn nghệ của Người. Theo bản dịch này, nhiều người cho rằng Người đối lập thơ xưa với thơ nay, coi thơ xưa chỉ là thứ văn nghệ mua vui, ngâm hoa,vịnh nguyệt suông, v.v…Hiểu như vậy là thô thiển, sai lệch. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu sáng tạo và tài tình tinh hoa của thơ xưa (cổ thi) trong những bài thơ tức cảnh của mình. “Thiên nhiên đẹp” vào trong thơ Người càng mỹ lệ hơn, lung linh hơn, kỳ ảo hơn : 
“Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu…”
và : “Sông núi muôn trùng trải gấm phơi !...” vân vân…

Điều chúng ta cần thấy rõ là thiên nhiên trong thơ Người gắn bó với con người tạo nên bức tranh sinh động của sự sống bất diệt. Và điều quan trọng hơn là, cảm hứng thi ca được khơi nguồn từ thiên nhiên ấy luôn hướng tới tâm điểm là cảm hứng anh hùng ca. Nói cách khác, thơ Người khai thác vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, thanh cao, tinh khôi của thiên nhiên và chính nhờ đó, cảm hứng anh hùng ca cách mạng được nhân lên để trở thành chất thép trong thơ Người : 

Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền 
(Nguyên tiêu) 
Nghĩa là : Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn việc quân. 
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng . 
hoặc : 
Cử đầu hồng nhật cận
Đối ngạn nhất chi mai . 
(Thượng sơn) 
Nghĩa là : Ngẩng đầu thấy gần mặt trời 
Nhìn bên suối thấy một nhành mai. 

(Những câu thơ dẫn trên đây, bản dịch cũ đều không diễn tả hết ý, chẳng hạn như bài Thượng sơn dịch là “Ngẩng đầu mặt trời đỏ / Bên suối một nhành mai” thì đã bỏ mất chữ “cận” (nghĩa là “gần”) làm mất đi vẻ đẹp hùng vĩ, lớn lao của Thi nhân – Lãnh tụ, đây là một bức tranh bằng thơ (thi trung hữu họa): những câu thơ đã làm hiện ra trước mắt ta hình ảnh lớn lao, kỳ vỹ của Thi nhân – Lãnh tụ : Người đứng trên núi cao lồng lộng, đầu đã gần chạm mặt trời – đó là biểu tượng của dáng đứng người anh hùng; còn nhành mai bên suối là vẻ đep bình dị mà lãng mạn bay bổng của tâm hồn Thi nhân!...). 

Trở lại bài thơ Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”, ta thấy bản dịch của Viện Văn học đã bỏ mất chữ “thiên” trong câu đầu “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ” cho nên đã dẫn đến cách hiểu sai lệch như đã nói trên. Thực ra ý thơ của Người nói rằng thơ xưa thiên (thiên lệch) về ca ngợi thiên nhiên, thơ nay nên có thêm chất thép, thơ còn phải là vũ khí đấu tranh, nhà thơ phải tham gia đấu tranh cách mạng .

Mười năm sau khi xuất bản tập Nhật ký trong tù, giáo sư Đặng Thai Mai mới viết bài Đọc lại tập thơ Nhật ký trong tù và giáo sư đã chỉ ra sự sai sót như đã nêu trên. Giáo sư viết : “Bốn câu thơ trên đây là quan điểm của Bác về hai vấn đề : tình cảm thiên nhiên trong thơ và lập trường đúng đắn của người thi sĩ trong thời đại mới…Có lẽ nên nói ngay rằng : ở đây không hề có thái độ cự tuyệt hoàn toàn đối với tình cảm thiên nhiên trong thơ và cũng không hề có thái độ phủ định tuyệt đối đối với giá trị thơ cổ điển. Nhưng một điểm Bác thấy cần phê phán trong “cổ thi” . Ấy là chỗ tình cảm thiên nhiên của các nhà thơ cổ có chỗ thiên lệch (rất tiếc là bài dịch chưa lột được hết ý của hai chữ “thiên ái” này). Thiên lệch ở chỗ nào ? Hai câu cuối bài thơ trả lời câu hỏi bằng cách nêu rõ yêu cầu của thời đại cần có chất thép và nhà thơ cũng phải biết xung phong” (2). Giáo sư Đặng Thai Mai đã chỉ rõ thơ Hồ Chí Minh bao hàm hai yếu tố hòa hợp với nhau rất nhuần nhụy: chất trữ tình và chất thép. Và đó cũng chính là đòi hỏi của Người đối với thơ hiện đại.

23 năm sau khi bản dịch Nhật ký trong tù được công bố, nhân dịp kỷ niệm 40 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm này (1943-1983), tại một Hội nghị khoa học lớn ở Hà Nội, đồng chí Hà Huy Giáp đã đề xuất ý kiến : “…Bác không phê bình thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp, Bác chỉ phê bình thơ xưa thiên về cảnh thiên nhiên đẹp, ít chú ý đến việc phục vụ cho sự nghiệp xây dựng một xã hội con người đẹp…Tiếc rằng bài này chưa hết ý nghĩa hai chữ “thiên ái”…Tại sao lại không dùng chữ “thiên”? (Thơ xưa thiên cảnh thiên nhiên đẹp)”…Và đồng chí Hà Huy Giáp đề nghị dịch lại bài thơ là : 

“Thơ xưa thiên cảnh thiên nhiên đẹp, 
Mây gió trăng hoa tuyết núi sông. 
Thơ thời nay nên pha chất thép, 
Nhà thơ cũng phải biết xung phong 

Sự phân tích của giáo sư Đặng Thai Mai và đồng chí Hà Huy Giáp nói trên là đúng đắn. Song, bản dịch thơ mà đồng chí Hà Huy Giáp đề xuất tuy lấy lại được chữ “thiên” nhưng lại bỏ mất chữ “ái” ! Thêm nữa, chữ “pha” trong câu ba của bản dịch vừa thô vừa không thể hiện được ý thơ nguyên tắc : thi trung ưng hữu thiết - ở trong thơ có chất thép, chất thép là hạt nhân của thơ chứ đâu phải là sự pha trộn giữa chất thép và thơ ! Hơn nữa, thơ của Người là thơ của bậc tiên phong đạo cốt, “bay cánh hạc ung dung” như cụ Bùi Bằng Đoàn đã viết về Người : “Thao bút nhưng thành thoái lỗ thi !” (Vung bút thành thơ đuổi giặc thù). Dịch như thế khác nào diệt đó vậy !...

Vấn đề dịch thơ Hồ Chí Minh, từ lâu đã có nhiều ý kiến tranh luận, đôi khi trái ngược. Nhiều người đề nghị tổ chức dịch lại toàn bộ phần thơ chữ Hán của Người, nhưng có không ít người lại cho rằng cứ để nguyên như bản dịch cũ với lý do : bản dịch đã thấm vào tình cảm, trở thành cảm xúc thẩm mỹ phổ biến và bền vững, thành châm ngôn, tục ngữ, hiện diện trong đời sống hàng ngày của công chúng rồi. Vì thế, dịch lại có nghĩa là sẽ phải thay đổi tâm lý tiếp nhận đã bền vững của công chúng, điều đó quả là khó khăn và không nên !...Vấn đề này, hy vọng là các nhà nghiên cứu, dịch thuật sẽ giải quyết mỹ mãn ...
ST

Ngắn gọn về di sản văn học của Hồ Chí Minh



DI SẢN VĂN HỌC CỦA HỒ CHÍ MINH



Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng vĩ đại, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới mà còn là nhà văn nhà thơ lớn của nước nhà .Sự nghiệp văn thơ Người có ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam hiện đại .Người để lại một di sản văn học lớn lao về tầm vóc , phong phú về thể loại , đa dạng về phong cách , sâu sắc về nội dung tư tưởng , sáng tạo độc đáo về phương diện nghệ thuật .Tác phẩm của Người tập trung ở 3 thể loại: văn chính luận, truyện kí và thơ ca .

Văn chính luận của Người có mục đích đấu tranh chính trị , tiến công trực diện kẻ thù , thức tỉnh giác ngộ quần chúng , thực hiện những nhiệm vụ cách mạng của dân tộc qua những chặng đường lịch sử .Ngòi bút chính luận của Người rất sắc sảo,linh hoạt,có sức thuyết phục,ngôn từ chính xác,hùng hồn,giàu tính trí tuệ và tính luận chiến.

Tác phẩm tiêu biểu:

Các bài báo với bút danh Nguyễn Ái Quốc đăng trên các báo Pháp như Nhân đạo,người cùng khổ,Đời sống thợ thuyền.
Bản án chế độ thực dân Pháp:tố cáo tội ác ,chính sách tàn bạo của thực dân Pháp ở thuộc địa và nêu lên những nôi khổ của nhân dân thuộc địa do chính sách đó gây ra.

Tuyên ngôn độc lập:tuyên bố nền độc lập tự do và việc thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: thể hiện tiếng gọi cứu nước thiết tha trong giờ phút Tổ quốc gặp nguy nan.

Di chúc : lời căn dặn chân tình ,thiết tha,vừa mang tính định hướng chiến lược trong hướng phát triển của đất nước vừa thấm đượm tình yêu thương con người.

Truyện và kí có đặc điểm:ngắn gọn,sắc sảo,kết cấu độc đáo,giàu tính trí tuệ,ý tưởng thâm thuý,kín đáo. Tác phẩm truyện tiêu biểu: Pa ri, Vi hành,Những trò lố hay là Va ren và Phan Bội Châu,Giấc ngủ 10 năm. Tác phẩm kí tiêu biểu: Nhật kí chìm tàu,Vừa đi đường vừa kể chuyện.

Thơ ca là lĩnh vực nổi bật trong giá trị sáng tạo văn chương của Bác,ngôn ngữ giản dị mà hàm súc,vừa cổ điển vừa hiện đại,kết hợp chất trữ tình cách mạng đằm thắm với cảm hứng anh hùng ca của thời đại. Tác phẩm tiêu biểu:

Nhật kí trong tù: 133 bài phản ánh tâm hồn và nhân cách cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh lao tù,chan chứa tình cảm nhân đạo,là tập thơ tiêu biểu nhất của Người.

Thơ Hồ Chí Minh:86 bài.

Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh: 36 bài.

(ST)

Tác gia Hồ Chí Minh



Tác gia Hồ Chí Minh

I/Vài nét về tiểu sử (1890 – 1969)
- Quê quán làng Kim Liên huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
- Thuở nhỏ Người học trường quốc học Huế
- 1911 Người ra đi tìm đường cứu nước
- 1919 Gửi bản yêu sách của nhân dân An Nam đến hội nghị hòa bình ở Véc-xây
- 1920 dự đại hội Tua và trở thành một trong những thành viên sáng lập ra Đảng cộng sản Pháp.
- Từ 1923 – 1941 Người trở về trực tiếp lãnh đạo phong trào CM trong nước
- 13/08/1942 trên đường sang TQ Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam.
- 1943 Người trở về nước trực tiếp lãnh đạo CM =>> 1945 cuộc khởi nghĩa đã diễn ra thành công.
- 02/09/1945 tại quảng trường Ba Đình Người đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập
- 1946 Người được bầu làm chủ tịch nước VNDCCH
=> Chủ tịch Hồ Chí Minh La nhà yêu nước, nhà CM vĩ đại đồng thời cũng là nhà văn hóa lớn.
II/Quan điểm sáng tác
1, Văn chương là vũ khí đấu tranh cách mạng
- Lúc sinh thời người không có ý định sẽ trở thành nhà văn, nhà thơ, nhưng trên con đường hoạt động CM Người nhận ra rằng: Văn chương phục vụ rất đắt lực cho cuộc đấu tranh. Người khẳng định rằng: “Văn học nghệ thuật là một mặt trận, anh, chị, em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó.”
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
2/Văn chương phải mang tính chân thật và dân tộc
- Người yêu cầu người nghệ sĩ phải miêu tả cho hay, cho chân thật, hiện thực phong phú của đời sống.
- Phải có ý thưc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tránh những lối viết cầu kì, xa lạ.
- Đề cao sự sáng tạo của người nghệ sĩ.
3/ Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến mục đích, đối tượng, hình thức
- Người đặt vấn đề:
+ Viết cho ai? (Đối tượng)
+ Viết để làm gì? (Mục đích)
+ Viết như thế nào? (Hình thức)
- Người luôn nhấn mạnh ý thức và vai trò của người cầm bút.
III/ Sự nghiệp văn học
1, Văn chính luận
- Sáng tác với mục đích đấu tranh chính trị, thể hiện nhiệm vụ CM qua các trặng đường lịch sử, mang tính chiến đấu hết sức mạnh mẽ.
- Những áng văn chính luận viết bằng lí trí sáng suốt, trí tuệ, sắc sảo, lời văn ngắn gọi, súc tích.
- Tiêu biểu: “Bản án chế độ thức dân Pháp” lên án chính sách tàn bạo của TD Pháp, kêu gọi người nô lệ đoàn kết đâu tranh.
- “Tuyên ngôn Độc lập” là áng văn chính luận mẫu mực, tiêu biểu.
- “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”
2/Truyện và kí
- Được viết bằng lối văn sắc sảo, cô đọng, ý tưởng thâm thúy, kín đáo, trí tuệ, sâu sắc viết theo lối văn vừa truyền thống vừa hiện đại.
- Truyện kí của Người có tính chiến đấu và nghệ thuật trào phúng sắc bén.
- Tiêu biểu:
+ Lời than vãn của bà Trưng Trắc
+ Vi hành
+ Những chò lố của Varen hay Phan Bội Châu
3/ Thơ ca
- Đây là lĩnh vực quan trọng trong sáng tác văn chương của Người
- Tác phẩn “Nhật kí trong tù” (Ngục trung nhật kí) được sáng tác (1942 -1943) gồm 134 bài thơ tứ tuyệt viết bằng chữ Hán
- Nội dung: Phơi bày bộ mặt xấu xa, tàn bạo của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch và là bức chân dung tự họa về con người có tâm hồn, dũng khí có trí tuệ lớn.
- Là sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển và hiện đại
- Kết hợp giữa trong sáng giản dị, thâm trầm sâu sắc
- Thơ HCM và thơ chữ Hán của HCM phản ánh tâm hồn và nhân cách của người chiến sĩ.
=> Sự nghiệp văn học khá phong phú và đa dạng, nhiều thể loại mang tầm vóc tư tưởng lớn.
IV/ Phong cách nghệ thuật
1/Văn chính luận
- Bộc lộ 1 tư duy sắc sảo, giàu trí thức văn hóa, gắn liền với lí luận thực tiễn
- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, luận cứ tiêu biểu, văn phong sắc sảo =>> Giàu tính chiến đấu.
- Giọng văn đa dạng khi hì hùng hồn, đanh thép, khi thì ôn tồn lặng lẽ thấu tình đạt lí.
2/Truyện và kí
- Chất trí tuệ và tính hiện đại là nét đặc sắc trong thể loại truyện và kí, cách tạo ra mâu thuẫn là bật cười, châm biếm, sắc sảo, thâm thúy và tinh tế.
- Cách tạo ra tình huống độc đáo, trí tuệ còn thể hiện ở ngôn ngữ hóm hỉnh, hài hước.
3/ Thơ ca
- Bút pháp uyển chuyển, linh hoạt
- Phong cách thơ chia làm 2 loại:
+ Thơ ca nhằm mục đích tuyên truyền
- Được viết như một bài diễn ca, dễ nhớ, dễ thuộc
- Giàu màu sắc dân gian
+Thơ nghệ thuật:
- Thơ người nó ít hiều nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đạm, có âm thanh trầm lắng.
=>> Ý ở ngoài lời
- Phong cách thơ Bác là sự kết hợp hài hoài giữa bút pháp cổ điển và hiện đại được thể hiện qua ngôn ngữ giản dị, hàm xúc, tú thơ độc đáo.
- Bút pháp chấm phá, như ghi lấy linh hồn của tạo vật
=>> Phong cách nghệ thuật của HCM rất đa dạng, phong phú về nội dung, thể loại nhưng thống nhất cách viết ngắn gọn, trong sáng, giản dị, sử dụng linh hoạt các thủ thuật nghệ thuật
Nguồn: ST

Quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh



HÃY TRÌNH BÀY QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC CỦA HỒ CHÍ MINH




Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng vĩ đại , anh hùng dân tộc , danh nhân văn hoá thế giới mà còn là nhà văn nhà thơ lớn của nước nhà .Sự nghiệp văn thơ Người có ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam hiện đại .

Trong sự nghiệp văn học , Hồ Chí Minh đã có hệ thống quan điểm sáng tác tiến bộ , vừa đảm bảo tính nghệ thuật của văn chương vừa gắn văn chương với đời sống nhân dân , dân tộc .

Hồ Chí Minh coi văn học là vũ khí chiến đấu lợi hại,phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng.Nhà văn cũng phải ở giữa cuộc đời,góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội.Văn thơ phải có chất thép,có xu hướng cách mạng và tiến bộ về tư tưởng,có cảm hứng đấu tranh xã hội tích cực,trở thành vũ khí đấu tranh cách mạng.

Người từng phát biểu:

“Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa ,tuyết, núi, sông;
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.”


Hoặc: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em (văn nghệ sĩ) là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.

Hồ Chí Minh quan niệm văn chương phải có nội dung chân thật,phản ánh hùng hồn những đề tài phong phú của hiện thực cách mạng , nêu gương tốt , phê phán cái xấu.Văn chương phải có tính dân tộc , phát huy cốt cách dân tộc.Người cũng quan niệm văn chương cần có hình thức giản dị ,trong sáng,ngôn từ chọn lọc,tránh lối viết cầu kì , xa lạ , nặng nề , giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và đề cao sự sáng tạo của người nghệ sĩ .

Hồ Chí Minh coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ và thưởng thức của văn chương.Người nêu kinh nghiệm trước khi cầm bút viết,nhà văn cần trả lời được các câu hỏi:viết cho ai?( xác định đối tượng),viết để làm gì?(xác định mục đích)rồi mới xác định viết cái gì?(xác định nội dung) và cách viết thế nào?(xác định hình thức nghệ thuật).

Quan điểm sáng tác này trở thành định hướng sáng tác cho các văn nghệ sĩ nước ta và góp phần không nhỏ vào thực hiện những nhiệm vụ của thời đại , đất nước .
ST

Tuyên ngôn Độc lập - Áng văn chính luận mẫu mực



Tuyên ngôn Độc lập - Áng văn chính luận mẫu mực




Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

Dù viết trong hoàn cảnh nào, và bằng thứ tiếng nào, văn chính luận Việt nói chung, văn chính luận Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng, luôn luôn dựa hẳn trên hai nguyên lí: nguyên lí nhân đạo chủ nghĩa và triết lí ái quốc chủ nghĩa. Trong cách trình bày, người viết thiên về sự khẳng định chân lý theo sát với hai nguyên lí trên. Sự khẳng định thường được trình bày hết sức rạch ròi giữa cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu, cái cao thượng và cái thấp hèn, điều chính nghĩa và điều phi nghĩa. Những sự khẳng định có tính chất đối lập này được thể hiện một cách nhuần nhuyễn, sắc sảo trong văn bản Tuyên ngôn Độc lập”.

Tìm hiểu cách lập luận trong văn bản “Tuyên ngôn Độc lập”, chúng ta có thể nhận ra: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng tất cả những luận cứ sắc sảo nhất, đắt nhất cho cách lập luận của mình, được thể hiện trong từng từ, từng câu, từng đoạn và toàn bộ văn bản.

Lập luận thể hiện ở cấp độ toàn văn bản

Chúng ta đều biết, bản Tuyên ngôn Độc lập” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “bằng văn xuôi hiện đại tiếng Việt, thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận, một loại văn mang tính chính thức xã hội ở cấp Nhà nước - quốc gia, hoặc liên Nhà nước - liên quốc gia,.... để nói rõ trước công chúng (trong và ngoài nước) về chính kiến của mình trước những sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại”. [Nguyễn Nguyên Trứ - Học tập cách viết của Hồ Chủ Tịch, Nxb Giáo dục 1999, tr159].

Đọc toàn văn bản “Tuyên ngôn Độc lập”, chúng ta nhận thấy phương pháp lập luận được Bác sử dụng trước hết, và quan trọng nhất, là lập luận bằng phương thức so sánh, so sánh tương đồng và so sánh tương phản những luận cứ, luận điểm trực tiếp liên quan đến vấn đề muốn nói.

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Đó là một kết luận quan trọng được rút ra từ những luận cứ (lí lẽ) có tính lịch sử xác thực:

Luận cứ 1: Bản 
Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mĩ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Luận cứ 2: Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng và quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Ở đây, xét về mục đích soạn thảo văn bản, bố cục là hình thức nhưng cũng là nội dung; và trong bố cục của một loại hình văn bản nào thì sự mở đầu lúc nào cũng quan trọng, cũng là kết quả của những sự cân nhắc thuộc chiến lược ngôn hành. Mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập”, ngay trong đoạn mở đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn ngay hai nội dung quan trọng trong hai bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp làm luận cứ cho kết luận của mình. Có thể nói rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp lập luận “gậy ông đập lưng ông” vào ngòi bút của mình một cách sắc sảo và hiệu quả. Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng lí lẽ của chính đối thủ ấy. Sự bác bỏ lí lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trường hợp như thế. Quan hệ giữa đoạn mở đầu với đoạn tiếp theo trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Bác là quan hệ ngữ nghĩa đối lập: đối lập nội dung, đối lập chữ nghĩa, đối lập về thái độ. Tất cả đã được diễn đạt trang trọng, chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn và xúc động. Điều này được thể hiện:

Thứ nhất, đi từ một chân lý đã biết, đã được công nhận, suy ra một chân lý tương tự, có chung logic bên trong, đó là cách lập luận so sánh tương đồng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng khi đem so sánh lời trích trong bản “Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mĩ”, để đi đến kết luận: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Cái “suy rộng ra” của Bác là cái được lấy từ chính cái luận cứ và lí lẽ: “Lời bất hủ ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ”, nhưng đó lại là “sự bổ sung rất trí tuệ của Bác: với cuộc đời của dân tộc mình và cuộc đời của biết bao dân tộc bị đoạ đày khác, Bác đã đưa ra một sự bổ sung vĩ đại, góp phần xoá bỏ một vết nhơ nhục nhã trong lịch sử loài người” [Nguyễn Nguyên Trứ, 1999; tr.160]. Ý kiến “suy rộng ra” ấy quả là “một đóng góp đầy ý nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới” [Nguyễn Đăng Mạnh - Tuyển tập văn học, Nxb. ĐHQGHN, 2006; tr.459].

Thứ hai, đối chiếu mặt trái ngược để làm nổi bật điều mình muốn hướng tới là phương pháp lập luận so sánh tương phản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng khi đối chiếu nội dung đoạn trích “Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789” cho kết luận hết sức thuyết phục: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Cơ sở lập luận của kết luận trên được xây dựng bằng lí lẽ: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Rõ ràng, xét một cách hiển ngôn, tác giả “Tuyên ngôn Độc lập” đã đánh giá lời trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mĩ là “bất hủ” (nghĩa là không khi nào cũ, không bao giờ mất), và lời trích dẫn Tuyên ngôn của nước Pháp “là những lẽ phải không ai chối cãi được” thể hiện rõ hành động chính trị, nhằm trả lời một đối một đối với những lí lẽ của những người chống đối hoặc phòng xa nguy cơ chống đối. Có thể nhận thấy, một mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao tư tưởng chính trị chứa đựng trong những lời trích dẫn ấy được ghi bằng chữ vàng trong lịch sử không chỉ của nước Mĩ, nước Pháp mà cả toàn nhân loại; mặt khác Người lên án việc xâm phạm, áp bức các dân tộc, chà đạp nhân quyền là phi pháp lí và đạo lí, là phi văn hóa. Ở đây, chúng ta bắt gặp một cách nói, cách viết vừa khéo léo, vừa kiên quyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khéo léo vì nó tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ; kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.

Hệ thống luận cứ, luận chứng và cơ sở lập luận của “Tuyên ngôn Độc lập”:

Chúng ta đều biết, văn chính luận thuyết phục người ta bằng lí lẽ, nếu đánh địch thì cũng đánh địch bằng lí lẽ. Lợi thế của nó là những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Do vậy, trong văn chính luận, nếu có dùng đến hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ để phụ giúp thêm cho sự thuyết phục bằng lí lẽ mà thôi. Điều này định hướng đúng đắn cho người nghe, người đọc khi tiếp nhận văn bản Tuyên ngôn Độc lập” để chỉ ra cái hay, cái tài của tác giả. Cách dùng từ ngữ (luận chứng), cách sắp xếp luận cứ (lí lẽ) và mục đích, thái độ, tình cảm của người viết chính là những cơ sở của những lập luận sắc sảo trong bản Tuyên ngôn Độc lập”. Khi tác giả soạn thảo bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã hội tụ đầy đủ 4 yếu tố bắt buộc của màn thuyết phục theo lý thuyết văn bản đã nêu ở trên:

a) Cơ hội (thời cơ nói):

Khi Bác Hồ đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” thì ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau quân đội Anh (thay mặt quân Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật) đang tiến vào Đông Dương, còn ở phía Bắc thì bọn Tù Tưởng, tay sai của đế quốc Mĩ, đã trực sẵn ở biên giới. Đây là thời điểm lịch sử quan trọng để Bác Hồ viết cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới nhằm khẳng định nền Độc lập của nước nhà.

b) Lí lẽ (các luận cứ):

Để khẳng định quyền Độc lập dân tộc của nước nhà, và lên án tội ác của quân xâm lược, bản

Tuyên ngôn Độc lập” đã dùng đến rất nhiều luận cứ, luận chứng (các lí lẽ) hết sức thuyết phục:

- Nội dung Bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mĩ”... là bất hủ.

- Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789. “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

- “Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.

- “Chúng thi hành những luật pháp dã man,...”.

- “Chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học,...”.


- “... trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật...”.

- “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp” v.v..

c) Tính biểu cảm của ngôn ngữ:

Bác Hồ viết “Tuyên ngôn Độc lập” với giọng văn chính luận hào hùng, lập luận sắc sảo, chặt chẽ, ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc. Điều này được thể hiện rõ trong văn bản qua: giọng điệu vừa khéo léo vừa kiên quyết, lựa chọn từ ngữ chính xác, ngắn gọn, súc tích nhưng hiệu quả. Khi nói về mình thì: “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng”, “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”, “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay...”. Khi nói về địch thì: 13 lần sử dụng từ chúng với những hành động được miêu tả khác nhau (chúng thi hành... dã man, chúng thẳng tay chém giết, chúng tắm các cuộc khởi nghĩa, chúng ràng buộc, chúng cướp, chúng bóc lột, chúng nhẫn tâm,...); còn khi trình bày những bằng chứng hiển nhiên, ngoài nội dung miêu tả là những kết tử, tác tử lập luận được sử dụng hết sức chặt chẽ: “thế mà”, “thậm chí”, “tuy vậy”, “bởi thế cho nên”, “vì những lẽ trên”, “suy rộng ra”; đặc biệt, Người đã sử dụng lặp đi lặp lại đến hai lần hai chữ “sự thật là...”, “sự thật là...” như một điệp khúc của bản cáo trạng, lời văn khẳng định đầy rắn rỏi và đanh thép.

d) Thái độ người nghe:

Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập” cho ai nghe? Rõ ràng, Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập” cho toàn thể đồng bào cả nước và nhân dân thế giới. Điều này ai cũng biết. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, Người viết không chỉ cho đồng bào và thế giới chung chung, vì như thế không cần nhiều đến những lời lẽ lập luận chặt chẽ, đanh thép đến vậy. Ở đây, người nghe là kẻ thù xâm lược Pháp và Mĩ mới là đối tượng Bác hướng tới. Từ đó ta mới hiểu, trong màn thuyết phục này, dù “Tuyên ngôn Độc lập” đã dùng đầy đủ lí lẽ nhưng người nghe vẫn có thái độ cố chấp, không đủ trí tuệ để nhận thức đúng, đầy đủ những nội dung, giá trị trong lòng người nói. Thế mới biết “sự cố chấp”, “ngang tàng” và “bạo ngược” của bọn đế quốc và thực dân xâm lăng! Quân xâm lược đã lắng nghe với một thái độ chống đối. Người viết bản “Tuyên ngôn Độc lập” cũng thừa hiểu rằng “mâu thuẫn giữa Anh-Mĩ-Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mĩ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương” (Nhận định của Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ngày 15-8-1945). Và đúng như dự định, sau “Tuyên ngôn Độc lập” chỉ có 21 ngày, núp dưới bóng quân Anh, thực dân Pháp đã nổ súng và Nam Bộ kháng chiến bắt đầu. Một lần nữa khẳng định, Hồ Chủ tịch luôn là người lãnh đạo “biết người biết mình trăm trận trăm thắng” trong mọi quyết sách của dân tộc.

Có thể nói, từ góc nhìn lí thuyết lập luận, chúng ta có thể nhận thấy một cách hiển ngôn hơn về nghệ thuật hùng biện, triết luận sâu sắc, hùng hồn và đanh thép trong từng câu văn của bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Tài nghệ ở đây là dàn dựng được cơ sở lập luận chặt chẽ, đưa ra những luận cứ, luận chứng, lí lẽ, bằng chứng không ai chối cãi được. Và đằng sau “những lời lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hoá lớn đã tổng kết được trong một bản Tuyên ngôn ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết, kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập tự do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc và của nhân loại” [Nguyễn Đăng Mạnh: 2006, tr.460]. Quả thật, bên trong tiếng nói của trí tuệ là tiếng nói của trái tim. Trong cơn bão khốc liệt của chủ nghĩa bạo lực, chủ nghĩa khủng bố đang diễn ra trong thời đại ngày nay, những lời suy rộng của “Tuyên ngôn Độc lập” đang vang lên như những tiếng chuông cảnh tỉnh: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Trần Văn Sáng
(nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)