Jul 3, 2012

Vi hành - Nguyễn Ái Quốc



Vi hành


( Trích “ Những bức thư gửi cô em họ do tác giả dịch từ tiếng An Nam”)


-Nguyễn Ái Quốc-


I. Tìm hiểu chung:

1. Hoàn cảnh sáng tác- Mục đích sáng tác:

- 1922 thực dân Pháp đưa vua Khải Định sang Pháp
- 1923 NAQ đã viết một loạt TP để vạch trần âm mưu của chính phủ Pháp và lật tẩy bộ mặt bù nhìn bán nước của Khải Định
- Đối tượng sáng tác là người dân Pari Bác viết bằng tiếng Pháp theo nghệ thuật Châu Âu hiện đại

2. Chủ đề: vạch trần bộ mặt thậtbù nhìn lố lăng của Khải Định và âm mưu thâm độc nham hiểm của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa.

II. Phân tích:

1. Giá trị nội dung:

a, Châm biếm lật tẩybản chất bù nhìn của KĐ 

* Chân dung KĐ qua cái nhìn của nhân dân Pháp

- Diện mạo: mũi tẹt, mặt bủng như vỏ chanh
- Trang phục: ngón tay đeo đầy những nhẫn, cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn.
- Cử chỉ thái độ: nhút nhát, lúng túng.
- Hành động: lén lút có mặt tại trường đua, tiệm cầm đồ, ga tàu điện ngầm.
-> KĐ hiện lên như một thứ đồ cổ xa lạ kệch cỡm lố lăng trong XH phương tây hiện đại hắn không có tư cách của một đế vương.
- Chân dung KĐ được dựng lên qua sự miêu tả của đôi trai gái người Pháp-> đảm bảo được tính khách quan
- Họ gọi KĐ là hắn, người khách của chúng ta, anh vua, so sánh với những trò giải trí tầm thường-> vua KĐ như một thứ đồ chơi, một con rối, một trò giải trí rẻ tiền
=> Hạ bệ KĐ hắn không xứng đáng là kẻ đại diện quốc gia chuyến đi của hắn chỉ nhằm mục đích đàng điếm không phải vì lợi ích của đất nước.

* Lời kết tội KĐ qua liên tưởng bình luận của người kể truyện

- Nhờ đến chuyện xưa, vua Thuấn- Pie-> họ vi hành xứng đáng-> phê phán KĐ với những hành tung mờ ám tầm thường-> kết tội KĐ: tội làm nhục quốc thể.

- Tác giả đặt ra rất nhiều câu hỏi: phải chăng ngài muốn biết…=> chất vấn KĐ từ đó đi đến kết tội KĐ: hại nước hại dân, bán nước và làm tay sai cho Pháp.

b. Vạch trần bộ mặt giả rối thâm độc của thực dân Pháp:

* Tố cáo chính sách cai trị của Pháp ở thuộc địa

- “ Công bảo hộ” khai thác và làm kiệt quệ kinh tế tài chính Đông Dương: Nhà băng Đông Dương luôn cạn ráo=> chính sách bóc lột.

- “Công khai hoá” bằng rượu cồn và thuốc phiện=> chính sách ngu dân.

* Tố cáo chính sách khủng bố ở chính quốc:

- Vạch trần luận điệu “tự do bình đẳng bác ái”: ngay tại nước Pháp chính phủ Pháp đã thi hành chính sách khủng bố theo dõi những người yêu nước Việt Nam trên nước Pháp

KL: Tác phẩm đạt được cả hai mục đích phản đế và phản phong.

2. Những sáng tạo nghệ thuật:

a, Những tình huống nhầm lẫn độc đáo

- Đôi trai gái người Pháp nhầm TG là KĐ.
- Dân chúng Pháp nhầm những người VN trên đất Pháp là KĐ
- Chính phủ Pháp nhầm những người An Nam trên đất Pháp đều là KĐ
=> 3 tình huống liên tiếp tăng cấp

* ý nghĩa: 

- Thể hiện thái độ khách quan của người kể chuyện
- Tình huống như đùa như bịa làm tăng tính hài hước khiến cho KĐ hiện lên càng trở lên lố bịch như một câu truyện tiếu lâm.

b, Hình thức viết thư:

- Bác viết thư cho cô em họ ở An Nam

* ý nghĩa: tạo được sự gần gũi và không khí như thật
-Khiến cho TP hấp dẫn mang dáng dấp một bức thư tình
- Có thể đưa ra những phán đoán giả định.
- Đổi giọng chuyển cảnh kinh hoạt, liên hệ tạt ngang so sánh thoải mái.

c, Những thành công khác:

- Nghệ thuật làm bấo
- Ngôn ngữ sinh động hấp dẫn đa giọng điệu
- Thể văn trào phúng thâm thuý sâu cay
- Nghệ thuật dựng chân dung độc đáo, miêu tả KĐ mà không cần KĐ xuất hiện.

III. Tổng kết:

- Vi hành thể hiện sức mạnh trong ngòi bút chiến đấu của HCM 
- Vi hành cũng thể hiện tài năng văn chương của Bác

Giải đi Sớm (Tảo giải) - Hồ Chí Minh


GIẢI ĐI SỚM

(Tảo giải)


Hồ Chí Minh
I.Giới thiệu chung.
Tảo giải là một bài thơ có thể tách thành hai bài tứ tuyệt độc lập và cũng có thể gộp lại thành một bài thống nhất, trọng vẹn.
II.Phân tích.
1.Khung cảnh đêm chuyển lao (4 câu đầu)
-Thời gian: gà gáy, đêm chưa tan: quá nửa đêm sắp chuyển sang ngày, cảnh vật có sự hoang vắng, lạnh lẽo bao quanh người tù.
-Cảnh vật: “quần tinh……” : thiên nhiên xuất hiện trong tình cảm gắn bó nâng đở nhau.
+Đỉnh núi mùa thu: câu thơ đậm ý vị, sắc màu cổ điển.
+So với câu 1, ý thơ có nhiều bất ngờ.
C1 khung cảnh tối tăm, C2 có ánh sáng huyền ảo của trăng sao
C1 người tù lên đường trong cô đơn, C2 cùng lúc đó, có trăng sao như người bạn khời hành, chia sẻ: thiên nhiên tri âm.
=>Trong hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt nhưng tâm hồn nhà thơ CM luôn hướng tới ánh sáng, sự hoà hợp giữa thiên nhiên và con người: chất thép trong thơ HCM.
-“Chinh nhân …… trận hàn”
+Điệp từ chinh và trận tạo âm hưởng trầm hùng, rắn rỏi và mạnh mẽ cho câu thơ
+Chinh nhân: người đi xa vì lý tưởng, sứ mệnh lớn lao (khác người tù bình thường) 
+Nghênh diện: tư thế chủ động.
+Trận trận hàn: từng cơn gió thu lạnh liên tiếp thổi tới.
=> con ngừơi ra đi vì lí tưởng trong hoàn cảnh vô vùng khắc nghiệt vẫn chủ động sẵn sàng đón nhận: tư thế của một chiến sĩ ý chí kiên cường của một nhà CM lớn.
*Bốn cấu thơ dựng lại bức tranh chuyển lao khi trời chưa sáng, một tiếng gà, một chòm sao từng cơn gió lạnh và ngừơi tù nơi đất lạ nhưng con người không cô đơn, rất ung dung vướn lên làm chủ hoàn cảnh.
2.Bình minh ngày mới-Tâm hồn thi sĩ.
-Hai câu đầu của khổ thơ thứ 2 mở ra cảnh đẹp chân trời lúc rạng đông: màu trắng chuyển sang hồng, bóng tối hết sạch.
+So với khổ 1 có sự vận động.
+Thiên nhiên như có cuộc đấu tranh và ánh sáng đã chiến thắng.
+Câu thơ “Hơi ấm……trụ” tạo ra một khung cảnh mới, sức sống mới.
-Con người: “Người đi……nồng” sức sống của thiên nhiên, hơi ấm của đất trời khơi hứng tâm hồn thi sĩ
III.Kết luận.
Hai khổ thơ nói về việc giải người tù HCM đi trong cảnh khắc nghiệt nhưng không thấy bóng dáng của người tù, chỉ thấy đó một chiến sĩ, một thi sĩ ung dung cất bước và nồng n thi hứng CM.
ST

Kiến thức cơ bản tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập

Kiến thức cơ bản tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập




Hoàn cảnh lịch sử


19/8/1945 chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23/8/1945, tại Huế trước hàng vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại thoái vị. 25/8/1945, gần 1 triệu đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy 10 ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ.

Cuối tháng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Và ngày 2/9/1945; tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập, Tự do.

Bố cục

1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập (Từ đầu đến “không ai chối cãi được”)

2. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta (“Thế mà hơn 80 năm nay… Dân tộc đó phải được độc lập!”)

3. Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố với thế giới (Phần còn lại).

Những điều cần biết

1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra…” nhằm nêu cao một lý tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới.

Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.

Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.

2. Nội dung


a. Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp.

- Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”.

- Năm tội ác về chính trị: 1- tước đoạt tự do dân chủ, 2- luật pháp dã man, chia để trị, 3- chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, 4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, 5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện.

- Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bóc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, 3- sưu thuế nặng nề, vô lý đã bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta, 5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói năm 1945.

- Trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán nước ta 2 lần cho Nhật”.

- Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.

b. Quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta


- Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh.

- Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.

- Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm dứt và xoá bỏ.

- Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”:

“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập.

Phần thứ hai là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ với những lí lẽ đanh thép, hùng hồn.

3. Lời tuyên bố với thế giới

- Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên)

- Nhân dân đã quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và lòng yêu nước).

Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc ta, thể hiện phong cách chính luận của Hồ Chí Minh

1. Cùng với bài thơ “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, bản “Tuyên ngôn độc lập”, phản ánh đúng diện mạo tinh thần và truyền thống chống xâm lăng của dân tộc Việt Nam trong trường kỳ lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước.

2. Một lối viết ngắn gọn (950 từ). Có câu văn 9 từ mà nêu đủ nêu đúng một cục diện chính trị: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Những bằng chứng lịch sử về 10 tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta là không ai chối cãi được. Sử dụng điệp ngữ tạo nên những câu văn trùng điệp đầy ấn tượng: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Cách dùng từ sắc bén: “cướp không ruộng đất”, “giữ độc quyền in giấy bạc”, “quỳ gối đầu hàng… rước Nhật”, thoát ly hẳn… xoá bỏ hết… xoá bỏ tất cả…”. Hoặc “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, v.v…

Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay/ một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay → dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Một luận điểm, một lý lẽ được trình bày bằng 2 luận cứ, dẫn đến 2 kết luận khẳng định được diễn đạt trùng điệp, tăng cấp.

Tóm lại, “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh góp phần làm giàu đẹp lịch sử và nền văn học dân tộc, tô thắm tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta./.
ST

Kích hoạt thông báo khi nhận tin nhắn private cho vbb



Lúc nãy có bạn hỏi mình sao diễn đàn bạn không hiển thông báo khi thành viên khác nhắn tin đến cho mình.

vì trường hợp này cũng có khá nhiều bạn gặp phải nên mình hướng dẩn luôn, hi vọng có ich cho những bạn chân ướt chân ráo bước vào vBB

Thật đơn giản là do bạn chưa bật chức năng có sẵn này thôi

Cách làm: vào: User Registration Option > Default Registration Options > Popup a Notification box when private (Bật lên một hộp thông báo Khi nhận tin nhắn riêng)

done!

Phân tích tác phẩm: Đôi mắt - Nam Cao


Phân tích tác phẩm: Đôi mắt - Nam Cao


Xem bài phân tích khác 

Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, viết Nhật ký ở rừng. Tại chiến khu, Nam Cao gia nhập Đảng. Từ đây, với cảm quan mới, Nam Cao hăng hái tham gia công tác văn hóa, văn nghệ và báo chí cứu quốc, hòa mình vào cuộc kháng hiến vĩ đại của dân tộc. Khiêm tốn, giản dị, chân thành, nhà văn không nề hà, không ngại khó, hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được tổ chức phân công. Các tác phẩm "kịp thời" của ông bắt ngay vào việc tuyên truyền cổ vũ, động viên chiến sĩ, cán bộ đồng bào trong địch hậu, ngoài tiền tuyến, trong đó truyện ngắn Đôi mắt được xem như một tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn dứt khoát với cái cũ, hào hứng, tin tưởng trên con đường lớn của dân tộc, của đất nước


“Mấy ngày nghỉ Tết, tồi dùng để viết một truyện ngắn cho đỡ nhớ. Truyện Tiên sư thằng Tào Tháo ! Nhưng sau tôi đặt cho nó một cái tên giản dị và đứng đắn : Đôi mắt”.


Đấy là tất cả những gì mà Nam cao đã viết về Đôi mắt trong cuốn nhật kí mà ông vẫn ghi khá đều đặn và kĩ lưỡng trong mấy tháng ở rừng. Chỉ vẻn vẹn chưa đầy ba dòng chữ, không hơn. Trong khi cũng ở ngày 2-3-1948 ấy, nhà văn lại dành nhiều giấy mực và rất nhiều sự thiết tha để nói về những lí do đã khiến ông phải dằn lòng gác lại ý định làm cuốn tiểu thuyết lớn mà ông vẫn thường xuyên trăn trở.


Có nghĩa rằng Nam cao đã không hề coi Đôi mắt là “ cái tác phẩm mơ ước” của đời mình. Và rất có thể chính nam Cao cũng đã không tiên lịệu được rằng cái truyện ngắn được ông viết để cho đỡ nhớ kia rồi sẽ thuộc vào số rất hiếm các tác phẩm văn xuôi thời ấy mà giá trị, như những năm sau này cho thấy, không bị nhạt phai đi với thời gian.


Nhưng thật sự lại đúng là như thế. Những trang văn Nam Cao viết trong mấy ngày Tết ấy sẽ còn mãi để cùng với bao thế hệ bạn đọc phát hịên, suy ngẫm về những ý nghĩa sâu sắc, lớn lao của nghệ thuật – mà cũng không chỉ riêng gì nghệ thuật... Những trang văn ấy còn mãi, còn là để cho chúng ta thêm dịp ngưỡng mộ một tài năng truyện ngắn bậc thầy.


Đôi mắt phê phán cách nhìn đời, nhìn người lệch lạc, khinh miệt, lối sống ích kỷ và bàng quan của một trí thức đối với kháng chiến, đồng thời biểu dương một lớp trí thức, văn nghệ sĩ có một cái tâm đẹp, gắn bó với nhân dân, tích cực tham gia sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đôi mắt thể hiện cách nhìn và thái độ của người trí thức đối với nông dân và kháng chiến.


Nam Cao, như thường lệ, vào truyện rất nhanh. Bỏ qua bằng hết những chi tiết thừa, những điều vụn vặt, hòan toàn không cần đến lối kể đủ ngành ngọn, đủ đầu đuôi, nhà văn chỉ bằng một hai câu đã ngay lập tức đặt chúng ta trước ngôi nhà của nhân vật chính – văn sĩ Hoàng. Rồi cũng chỉ qua một hai câu nữa, ấn tượng đầu tiên về nhân vật đó đà nổi hẳn lên, qua một chi tiết đầy sức phát hiện: Đã đến nước phải rời Hà Nội tản cư về nông thôn sống nhờ dân mà một thói quen không hợp cảnh, không hợp thời đến như nuôi chó Tây trong nhà, anh ta cũng không sao bỏ được. Một con người vẫn cứ hệt như cũ, trong một hòan cảnh đã hòan tòan khác cũ.


Nhưng đó mới là khúc dạo đầu tiên, làm nên, làm nền để cho Hòang xúât hiện. Và tác giả đã cho nhân vật bước ra: một con người mới thạot trông đã thấy ứ đầy sự no nê, nhàn hạ, sự múp míp, phong lưu, nó khiến anh trở nên rất chướng trong hòan cảnh cả một dân tộc đang gian lao chiến đấu. Và cái cảm giác ấy đã được Nam Cao diễn tả một cách sắc sảo đến tinh quái, trong những lời văn thật giàu sức tạo khối tạo hình:


“Anh Hòang đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khí to béo quá, vừa bước vừa bơi cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở hai bên dưới nách kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá”.


Xin hãy nhớ rằng những lời có khả năng làm người ta phải phát ngấy lên này, Nam Cao đã viết vào lúc đang sống với những bữa cơm rất nhiều khi chỉ có muối không, trên rừng, bên những người Tày, người Dao vất vả và đói rách...




Có thể nói, trên suốt chiều dài thiên truyện, Nam Cao không ngớt đưa ra những chi tiết rất đắt để miêu tả ngọai hình Hòang và đời sống vào lúc ấy đang là quá ư dư giả của nhà Hòang: nào là “một cái vành móng ngựa ria” đặc chất thị thành được Hoàng chăm nuôi đúng lúc anh ta đã rời thành thị, nào là cái thú ăn mía ướp hoa bưởi và ngủ trong những tấm chăn thoang thỏang nước hoa...


Có lẽ ở đây nên tránh một sự hiểu lầm. Một người như Nam Cao, tôi chắc không bao giờ lại thù nghịch với một nhu cầu chính đáng của con người – nhu cầu được sống trong sung sướng. Trong trường hợp này, nhà văn, theo tôi, chỉ muốn lí giải cái nguyên nhân đã sinh ra đôi mắt nhìn đời, nhìn người một phía của Hòang. Hãy nhớ đến cái ý của F.Coppée mà Nam Cao từ lâu đã tâm đắc: Người chỉ xấu xa trước đôi mắt của phường ích kỉ.


Phải chăng, Nam Cao đã đặt vào trung tâm truyện Đôi mắt này hình tượng của một kẻ xét cho cùng cũng thuộc vào phường ích kỉ, một kẻ mà sự ích kỉ đã cho phép anh ta yên tâm thỏa thuê sung sướng no đủ một mình giữa những tháng ngày gian khổ nhất củ cuộc kháng chiến toàn dân. Và đấy là một lí do, là một trong những lí do đã khiến dưới đôi mắt anh ta, con người hiện lên với chỉ tòan cái xấu.


Không khó khăn gì để thấy, quả thật, dưới đôi mắt và qua cửa miệng Hòang, đã hiện lên, và chỉ hiện lên, cả một danh sách dài những tật xấu của người dân kháng chiến: ngu độn, tham lam, bần tiện, thóc mách, rởm đời, và tệ nhất là đã ngố lại còn nhặng xị (đánh vần chưa xong mà lại thích đòi xét giấy, viết còn sai chữ quốc ngữ mà lại sính làm con vẹt lặp lại những từ chính trị cao siêu).Người dân chỉ có thể là như thế dưới mắt Hòang: và đấy là một định kiếng mà cho đến cuối cùng, không một nhân vật nào dám nghĩ đến việc làm thay đổi.


Nhưng xin đừng vội đơn gảin hóa Nam Cao. Nhà văn xây dựng nhân vật Hòang như một người chỉ nhìn được một phía của sự thật chứ không phải một kẻ cố ý nói sai sự thật. Có thể tin rằng Hòang chân thực trong việc kể lại những gì mình quan sát được. Anh ta cam đoan tới hai lần:” Tôi có bịa một tí nào, tôi chết”. Và cũng xin để ý điều này: không một nhân vật nào, ngay cả Độ - người có thể coi như một hóa thân của chính Nam Cao – thấy ngờ vực về những điều Hòang kể. Độ có thể không đồng tình với thái độ không đồng tình của Hòang, có thể cắt nghĩa khác đi về những hiện tượng mà Hòangđã nêu ra, nhưng Độ chưa hề một lần hòai nghi rằng những hiện tượng như Hòang đã thấy là không thể có. Đấy là chưa nói rằng, có lúc Độ còn góp thêm vào câu chuyện của Hòang những hiện tượng tương tự thế về những nhược điểm của quần chúng, với một giọng điệu không phải hòan tòan xa lạ so với giọng điệu của Hòang:” Vô số anh răng đen, mắt tóet, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh...”. Nếu không có thêm những lời giải thích ở phía sau, thì một lối nói thế này, riêng nó thôi, kể cũng dễ bị lầm cho là của chính nhân vật Hòang.


Hòang nhìn đời, nhìn người theo một phía. Nhưng ở riêng cái phía ấy thì Hòang lại rất biết nhìn, và càng rất biết diễn tả một cách sắc sảo những gì nhìn thấy. Hầu như không bao giờ anh ta chịu dừng ở những nhận xét chung chung. Ngược lại, nhà văn ấy – không phải tình cờ mà Nam Cao đã xây dựng nhân vật Hòang là một nhà văn – luôn luôn biết làm sống động những nhận xét của mình bằng những câu chuyện kể đầy ý vị. Xin thử lấy ra đây một trong rất nhiều ví dụ. Hòang phàn nàn với Độ về việc người dân quê, theo Hòang, cứ hay nấp nom chú ý một cách vô lối tới những người ở xung quanh. Một nhận xét như thế chắc sẽ không có gì đặc biệt hấp dẫn nếu không có những câu tiếp theo sau:


“Này, anh mới đến chơi thế mà lúc nãy tôi đã thấy có người nấp nom rồi. Ngày mai thế nào chuyện anh đến chơi tôi cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh gầy béo thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên trái”.


Cái đáo để của Hòang, mà cũng là cái ghê gớm ở ngòi bút văn xuôi của Nam Cao lại chính là cái khả năng biết nhìn ra cái không mấy ai nhìn thấy. Khả năng nhận thấy cái bản chất nó bộc lộ ra tận kẽ tóc chân tơ ở chính những chỗ tưởng như chẳng đáng kể gì hết cả: những nốt ruồi, mấy cái lỗ rách, mà lại cụ thể đến mức là lỗ rách ở ống quần bên trái ! Chẳng khác nào M.Gocki và I.Bunin trước kia đã từng phát hiện ra đúng thực chất của một kẻ lạ trong quán rượu nhờ không chỉ vào vẻ mặt xanh xám, mà còn từ lọai cà vạt và chiếc cổ áo nhàu...

ST

Những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám


NHỮNG NÉT CHÍNH TRONG QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM



Nam Cao là một nhà văn lớn của nền văn học hiện thực phê phán nói riêng và là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam nói chung. Sở dĩ Nam Cao có một vị trí xứng đáng như vậy bởi cả cuộc đời cầm bút của mình, ông luôn trăn trở để nâng cao "Đôi Mắt" của mình. Tất cả những gì Nam Cao để lại cho cuộc đời chính là tấm gương của một người "trí thức trung thực vô ngần" luôn tự đấu tranh để vươn tới những cảnh sống và tâm hồn thật đẹp. Với những nét tiêu biểu như vậy, Nam Cao đã thể hiện qua một hệ thống các quan điểm sáng tác của mình trước cách mạng tháng Tám.

Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám được thể hiện qua "Trăng Sáng" và "Đời Thừa". Trong "Trăng Sáng", nhà văn quan niệm văn chương nghệ thuật phải "vị nhân sinh", nhà văn phải viết cho hay, cho chân thực những gì có thật giữa cuộc đời, giữa xã hội mà mình đang sống. Ông viết "Chao ôi! Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than". Đó chính là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Trước cách mạng, Nam Cao mang tâm sự u uất, đó không chỉ là tâm trạng của một người nghệ sĩ "tài cao, phận thấp, chí khí uất" (Tản Đà) mà đó còn là tâm sự của người người trí thức giàu tâm huyết nhưng lại bị xã hội đen tối bóp nghẹt sự sống. Nhưng Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà ông trở nên khinh bạc. Trái lại ông còn có một trái tim chan chứa yêu thương đối với người dân nghèo lam lũ. Chính vì lẽ đó mà văn chương của ông luôn cất lên "những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than".

Trong "Đời thừa", một tác phẩm tiêu biểu của văn Nam Cao trước cách mạng, Nam Cao cũng có những quan điểm nghệ thuật. Khi mà ta đã chọn văn chương nghệ thuật làm nghiệp của mình thì ta phải dồn hết tâm huyết cho nó, có như thế mới làm nghệ thuật tốt được. "Đói rét không có nghĩa lý gì đối với gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, suy ngẫm, tìm tòi, nhận xét, suy tưởng không biết chán. Đối với hắn lúc ấy nghề thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đáng quan tâm nữa...". Nam Cao còn quan niệm người cầm bút phải có lương tâm và trách nhiệm đối với bạn đọc, phải viết thận trọng và sâu sắc: "sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là sự bất lương rồi, còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện". Với Nam Cao, bản chất của văn chương là đồng nghĩa với sự sáng tạo "văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Quan điểm của Nam Cao là một tác phẩm văn chương đích thực phải góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc: Nó phải chứa đựng một cái gì đó vừa lớn lao vừa cao cả, vừa đau đớn vừa phấn khởi: "Nó ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình, nó làm người gần người hơn".

Văn nghiệp của Nam Cao (1915-1951) chủ yếu được thể hiện trước cách mạng tháng Tám. Với quan điểm sáng tác thể hiện trong hai truyện "Trăng Sáng" và "Đời Thừa" giúp ta hiểu sâu hơn về Nam Cao. Qua đó, ta thấy được những đóng góp về nghệ thuật cũng như tư tưởng của Nam Cao cho văn học Việt Nam. Từ đấy giúp ta hiểu vì sao Nam Cao - một nhà văn chưa tròn bốn mươi tuổi lại để lại cho cuộc đời một sự nghiệp văn chương vĩ đại đến như vậy.



Bài viết sưu tầm

Nói thêm về “Đôi mắt” của Nam Cao


Nói thêm về “Đôi mắt” của Nam Cao


1. Không thuộc vào hàng những kiệt tác của Nam Cao, nhưng Đôi mắt vẫn là sáng tác xuất sắc của ông sau cách mạng. Và so với "mặt bằng" truyện ngắn đương thời, thì nó vẫn cứ là một cái đỉnh. Có lẽ vì thế mà kể từ độ vừa ra đời cho đến nay, bước sang thế kỷ mới rồi, nó vẫn cứ làm nóng dư luận. Mà xem ra, mọi tranh cãi vẫn là từ cái anh chàng văn sĩ Hoàng ấy. Tôi không nhằm nói tới cái việc đồng nhất anh ta với nguyên mẫu. Đấy là một sai lầm "lịch sử" khiến Hoàng nghiễm nhiên thành cái bóng đè lên thanh danh nhà văn Vũ Bằng mà phải đến cuối thế kỷ trước mới hóa giải được1. Điều tôi muốn đề cập ở đây là cách hiểu khác nhau về thực chất của Hoàng và ý đồ nghệ thuật của Nam Cao. Nhìn lướt thì ý kiến chia làm hai thời kỳ. Trước đổi mới, xem chừng khá thống nhất. Người ta vẫn thấy Hoàng thuần là phản diện, và thái độ của Nam Cao với nhân vật này là phê phán, lên án. Tuy rằng chưa phải việc hiểu đã tới độ cần thiết. Nhưng kể từ đổi mới trở đi, bắt đầu thấy nảy ra loại ý kiến cho rằng: người đọc đã quá khắt khe với Hoàng, thái độ Nam Cao không gay gắt đến thế. Và thậm chí, có vẻ như Nam Cao còn khắc họa Hoàng như một trí thức tỉnh táo, đã thấy trước những hạn chế của người nông dân đi làm cách mạng vào giữa lúc quần chúng đang lên ngôi; nên đã coi Hoàng như một thứ tiên tri đi trước thời đại.

Xem ra, xung quanh truyện Đôi mắt của Nam Cao, tồn tại cả "vấn đề đôi mắt" của bản thân người đọc nữa thì phải!
Chả biết, cái ý kiến "cấp tiến" nhân luồng gió đổi mới này có "tiến" được "cấp" nào không, mà thấy bất chấp cả những nguyên tắc tối thiểu của việc tiếp nhận nghệ thuật. Trước hết là nguyên tắc lịch sử. Đó là gán cái nhìn của ngày hôm nay cho một tác phẩm quá khứ. Bấy giờ, cuộc cách mạng tháng Tám đã tạo ra một sự đổi thay ghê gớm. Nhiệt tình bỏng cháy và niềm tin đơn giản thường khiến người ta nhảy từ cực đoan này sang cực đoan khác. Trí thức bấy giờ đều muốn đoạn tuyệt hoàn toàn với "con người cũ" của mình, đều kiên quyết "lột xác". Thấy mình có lỗi với quần chúng, lạc lõng trước nhân dân, lạc loài trước dân tộc. Nhất nhất đều lấy quần chúng ra để làm mẫu, làm gương. Chỉ có quần chúng là vĩ đại, là vạn đại.… Tất cả đều thành tâm, thành kính, hồ hởi. Tuyệt nhiên chưa có chỗ để đặt những dấu hỏi cho hoài nghi hay xét lại. Như tuyệt đại đa số văn nghệ sĩ trí thức đương thời, Nam Cao cũng không là ngoại lệ. Điều ấy có hiện ra ngay cả trong truyện ngắn này chứ không phải đâu xa. Cứ đọc lại cái đoạn Độ ngẫm nghĩ về đôi mắt của Hoàng trong đối sánh với toàn bộ thời buổi kháng chiến bấy giờ thì khắc biết. Tức là Nam Cao đã viết Đôi mắt bằng nhận thức đương thời, bằng niềm tin đương thời. Trong cái tâm thành đến mức ngây thơ kia của Nam Cao, làm gì đã có chỗ cho một chút hoài nghi nào, dù chỉ là thoáng qua, nói gì đến cái gọi là sự tỉnh táo đi trước thời đại từa tựa như là xét lại đó. Nhìn ra những méo mó của cuộc đời là bởi đôi mắt ráo hoảnh của Hoàng, chứ quyết không phải bởi tiên cảm nhạy bén thuộc năng lực tiên tri của Hoàng. Đó là hai nguyên ủyhoàn toàn khác nhau, gắn với hai bản chất khác nhau. Chả nên đánh đồng. Đánh đồng là ngộ nhận, là làm hại chứ đâu phải làm sang gì cho Nam Cao. Tự thân tư tưởng Nam Cao đã đủ vĩ đại rồi. Ông không cần đến sự làm sang vô lối nào nữa đâu.

Ý tưởng "cấp tiến" kia cũng không đếm xỉa gì đến mối liên hệ mật thiết giữa các sáng tác cùng thời của cùng tác giả. Truyện ngắn Đôi mắt được viết gần như cùng thời điểm với Nhật ký ở rừng. Nếu nhật ký là nơi bộc lộ khá trực tiếp những suy tư và ý đồ nghệ thuật, thì truyện ngắn là chỗ các ý đồ kia đã hoá thân thành hình tượng sống động. Ai cũng biết trong Nhật ký ở rừng, Nam Cao có nói đến một loại người mà ông gọi là những tên "bố vấu", chúng là những trí thức nửa mùa, với những biểu hiện: không yêu một cái gì, không làm việc gì, chúng chỉ giỏi chửi đổng. Có thể nói một trong những tên "bố vấu" như thế đã hóa thân thành Hoàng. Tiếp nhận nhân vật Hoàng không thể cắt lìa khỏi mối liên hệ gần gũi và thống nhất đó.

Tuy nhiên, những nguyên tắc trên bị vi phạm cũng chưa thật đáng ngại lắm. Loại ý kiến "cấp tiến" kia còn bất chấp một nguyên tắc quan trọng hơn của việc cảm thụ nghệ thuật đó là hiểu nhân vật thoát ly khỏi cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm. Không ai không thấy rằng Đôi mắt là truyện ngắn ít nhiều có tính luận đề. Luận đề bao trùm chính là Đôi mắt. Nghĩa là cách nhìn người nhìn đời. Luận đề ấy được hiện hình rất sắc nét nhờ một tình huống truyện đặc sắc. Toàn bộ truyện ngắn này xoay quanh một tình huống chủ chốt: cuộc gặp gỡ vừa thân thiện vừa gượng gạo của hai nhà văn vốn là bạn viết của nhau, nhưng bây giờ đã rất khác nhau về lối sống, chỗ đứng và cách nghĩ, đó là Hoàng và Độ. Cuộc gặp gỡ như thế đã quyết định đến tính đối thoại trong cấu trúc tác phẩm. Đôi mắt là cuộc đối thoại giữa hai nhân vật - hai nhà văn - hai tư tưởng… mà tựu trung là cuộc đối thoại của hai "đôi mắt". Cuộc gặp gỡ và tính chất đối thoại như thế cũng quyết định đến kiểu nhân vật của truyện ngắn này: tuy cũng được mô tả khá đầy đủ từ lai lịch đến ngoại hình, từ hành động đến ngôn ngữ, nhưng về căn bản, hai nhân vật chính trong câu chuyện này nghiêng về kiểu nhân vật tư tưởng. Đúng thế, tư tưởng mới là cốt lõi của họ, những bình diện khác được đề cập hầu như chỉ nhằm lý giải cho tư tưởng của họ mà thôi. Nếu không sợ cực đoan, có thể khẳng định: Hoàng và Độ là hai tư tưởng, hai "đôi mắt" được nhân vật hóa. Nhìn sâu hơn, cuộc gặp gỡ và tính chất đối thoại đó cũng quyết định đến một nguyên tắc nghệ thuật chủ đạo chi phối việc khắc họa cặp hình tượng: đối lập tương phản. Độ là chính đề Đôi mắt thì Hoàng là phản đề Đôi mắt. Nếu Độ là người được đề cao, thì Hoàng là kẻ bị lên án. Đúng theo cung cách của chính diện và phản diện, ánh sáng và bóng tối. Thậm chí, ở một số điểm, nếu nắm được người này thì sẽ suy ra được người kia, theo lối tương phản. Trong Đôi mắt, nhân vật này chỉ thực sự tồn tại khi song hành với nhân vật kia. Có lẽ, chưa ý thức thật đúng mức về điều ấy, nên việc hiểu Hoàng còn không ít hạn chế.

2. Tuy nhiên, bài này được viết ra không nhằm tranh luận với các ý kiến "cấp tiến" nọ. Tôi muốn nói đến một việc khác thuộc về nghệ thuật bậc thầy của Nam Cao : việc dựng nhân vật Hoàng. Cố nhiên, tôi cũng không định nói đến lối dùng đồ vật và loài vật để khắc họa nhân vật. Đành rằng, việc mô tả Hoàng gắn liền với thế giới tiện nghi sang trọng và con chó becgiê, giữa những ngày tản cư kháng chiến kham khổ, là một thủ pháp đặc sắc của Nam Cao. Quả là, những tiện nghi và con becgiê kia đã tố cáo về bản chất ích kỷ và triết lí hưởng thụ tệ hại ở chủ nhân của chúng. Song, cái tôi muốn đề cập nhiều hơn vẫn là chuyện khác: chuyện ngôn ngữ nhân vật. Phải, nhiều khi ta bỏ qua, hay chừng mực hơn, ta chưa chú ý đúng mức đến ngôn ngữ nhân vật nên đã hiểu nhân vật chưa thật đến nơi. Ai cũng biết, ngôn ngữ nhân vật là một phương tiện hết sức đắc dụng để nhà văn khắc họa nhân vật. Dùng thành công thì lời nhân vật chính là một bức chân dung tự họa sắc nét về bản thân nhân vật. Trường hợp Hoàng là như vậy. Tiếc rằng, nó chưa được quan tâm thật đúng mức. Hoàng là một nhà văn. Trước đến nay, người đọc, người nghiên cứu vẫn chưa chú ý đầy đủ tới khía cạnh nhà văn trong ngôn ngữ Hoàng.

Đặc điểm của thứ ngôn ngữ ấy là gì? Trong trường hợp này, nổi lên mấy khía cạnh chính: khái quát từ chi tiết rồi cường điệu lên để mặc nhiên xem chi tiết thuộc hiện tượng là bản chất, cố chấp về chữ nghĩa, đặc biệt hơn, thường có hai tầng hiển ngôn và hàm ngôn. Mà hiển ngôn chỉ là đưa đẩy mua vui, hàm ngôn mới là bụng dạ thực. Lâu nay, đọc lời Hoàng, ta mới chỉ nghiêng về tầng hiển ngôn mà bỏ qua rất nhiều tầng hàm ngôn. Hãy đơn cử một ví dụ. Khi được hỏi thăm về chuyện sáng tác, Hoàng trả lời : "…Nhưng thế nào chúng mình cũng phải viết một cái gì đó để ghi lại cái thời này. Nếu khéo làm thì còn có thể hay bằng mấy cái "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng. Phụng nó còn sống đến lúc này thì phải biết!". Đoạn thoại này rất tiêu biểu cho ngôn ngữ của Hoàng. Tầng hiển ngôn chỉ là trình bày một quyết tâm, một dự định sáng tác và tỏ ý tiếc thay cho bạn văn không còn sống. Nhưng còn tầng hàm ngôn là những hàm ý, ẩn ý gắn với nội dung của "Số đỏ" và tài trào phúng của Vũ Trọng Phụng. Nó chứa đựng thâm ý nào đây ? Trước hết, nó thể hiện quan niệm của Hoàng về cái thời ấy: té ra Hoàng coi cái thời buổi kháng chiến với những anh thanh niên vác bó tre, các ông dân quân, các bố tự vệ kia là nguồn nguyên liệu lý tưởng cho tài năng trào phúng kiểu như Vũ Trọng Phụng tha hồ mà tung hoành. Nghĩa là cái thời buổi nhố nhăng, vô nghĩa lý, một tấn đại hài kịch. Hơn nữa, nếu Hoàng sáng tác thì sẽ viết như Vũ Trọng Phụng viết "Số đỏ". Nghĩa là sẽ mang những con người kia ra để làm trò cười, để chế giễu, nhạo báng, lố bịch hóa… Rõ ràng thái độ và nhận thức chính của Hoàng được gửi phần lớn vào tầng ngầm của mỗi phát ngôn.

Cần chú ý đến tầng hàm ngôn, vô ngôn, đấy chính là một mã khóa giúp ta hiểu thực chất tư tưởng và thái độ của Hoàng.

Lần này đến thăm Hoàng, mục đích của Độ là muốn tìm hiểu xem Hoàng đã có gì thay đổi chưa, nếu đã, thì sẽ vận động anh ta tham gia hoạt động cách mạng như mình. Trong những thay đổi, thì quan trọng nhất là tư tưởng. Bấy giờ là thời buổi kháng chiến, nên điều cốt yếu trong tư tưởng chính là nhận thức về đời sống kháng chiến. Hai đối tượng căn bản làm nên đời sống kháng chiến lúc này không phải ai khác hơn là quần chúng và lãnh tụ. Trong mắt Hoàng, cả hai đối tượng này đều là những hình ảnh méo mó, mỗi đằng méo mó theo một kiểu. Quần chúng méo mó bởi miệt thị. Lãnh tụ méo mó bởi sùng bái dễ dãi vô lối.

Trong cái nhìn của Hoàng, quần chúng chỉ là một đám đông hiện ra với mấy "phẩm chất": ngu dốt, tàn nhẫn, ngố và nhặng xị. Ngu đến mức nào? đến chỉ đường cũng không biết cách. Anh thanh niên vác bó tre rõ ràng là thuộc làu con đường lên chợ Huyện, giờ chỉ diễn đạt cho người khác hiểu mà không làm nổi, càng cố diễn đạt càng rối rắm, như tung hỏa mù, người nghe chẳng còn biết đằng nào mà lần. Dẫn chứng ấy hàm ý gì? Đầu óc quần chúng thật thảm hại, cố hoạt động trí tuệ thì tối tăm, ngừng hoạt động trí tuệ thì may ra mới sáng sủa. Ngu đến mức nào nữa? Đến đọc một cái tên cũng không phân biệt được đàn ông đàn bà. "Ông chủ tịch làng này xem giấy của nhà tôi, thấy đề Nguyễn Thục Hiền, cứ nhất định bảo là giấy mượn của đàn ông. Theo ông ấy, thì đàn bà ai cũng phải thị này thị nọ". Không phải vô cớ mà Hoàng (Nam Cao thì đúng hơn) chọn cái tên này để ví dụ. Và cái ý thuộc hàm ngôn, vô ngôn ở đây là gì vậy? Đúng là, nếu tách ra thành "Thục" và "Hiền" thì từng tên ấy có thể đặt cả cho đàn ông lẫn phụ nữ. Nhưng khi ghép lại trong một tên "Thục Hiền" thì chỉ có thể là tên đặt riêng cho phụ nữ thôi. Một cái tên phụ nữ đến thế, một điều sơ đẳng đến thế cũng không biết, cũng có thể nhầm, thì ông nhà văn này thấy thật là ngu hết chịu nổi. Còn ngố thì thế nào? Thì như anh thanh niên vác bó tre. Riêng bó tre đã nặng quá rồi, lại loay hoay mãi mà không chỉ xong đường, nặng thêm bội phần rồi, cũng đã chào nhau để đi rồi, thế mà vẫn còn cứ nán lại đọc bài ba giai đoạn dài đến năm trang giấy. Thế là cực ngố còn gì. Nhưng đó mới chỉ là phía hiển ngôn thôi. Còn tầng hàm ngôn? Chỉ vẽ đường đất còn không nên hồn lại đi tuyên truyền đường lối! Lại nữa, anh là thằng mù chữ, là con vẹt biết nói mà lại dám tuyên truyền tôi là thằng trí thức. Thật là ngược đời, quái dị, thật là ngố hết chỗ nói. Cái ngụ ý ở tầng hàm ngôn như thế mới giải thích được vì sao Hoàng lại có sự khinh bỉ đến mức ấy: "Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối" ! Và khiến anh sẵn sàngchọn lối ứng xử thà mang tiếng là phản động còn hơn là phải cộng tác với những người như vậy (!)

Tuy nhiên, ở phần nhận thức về quần chúng, việc quan tâm đến khía cạnh nhà văn trong ngôn ngữ của Hoàng cũng chưa giúp hiểu thêm anh ta được là bao. Đáng kể là ở nhận thức về lãnh tụ. Trước đến nay, do chưa chú ý đúng mức đến sắc thái này của ngôn ngữ Hoàng mà ta chưa hiểu thực chất về tình cảm cũng như nhận thức của anh ta đối với cụ Hồ. Chúng ta đều tưởng rằng với quần chúng Hoàng miệt thị, còn với lãnh tụ thì Hoàng tin sùng. Nhầm. Hoàng cũng chả yêu cụ Hồ thật sự, chả hiểu cụ Hồ thực sự.

Ngôn ngữ nhân vật đã tiết lộ điều đó.

Những lời tán dương dễ dãi khoa trương của Hoàng xuất phát từ một cái tâm không thật sáng. Tán dương cụ Hồ để thêm một lần nữa dùng lối đề cao một cá nhân mà phủ định đám đông quần chúng."Hồ Chí Minh đáng lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia, mới xứng tài. Phải cứu một nước như nước mình kể cũng khổ cho ông Cụ lắm". Hoàng nói thế chẳng phải là hàm ý một nước toàn những người như đám quần chúng ngu dốt, ngố và nhặng xị kia không đáng có một lãnh tụ như Hồ Chí Minh. Làm lãnh tụ một nước như thế này thật phí tài cụ Hồ. Tán dương cụ Hồ còn nhằm che đậy thái độ thờ ơ vô trách nhiệm của mình trước sự nghiệp cứu nước chung. Cuộc kháng chiến toàn dân này muốn mau giành thắng lợi cần có sự tham gia, đóng góp của nhiều người. Người có tre, góp tre. Người có chữ, đi dạy bình dân học vụ. Người có khả năng văn nghệ, đi làm công tác tuyên truyền… Có thế, ngày độc lập mới có cơ đến được. Thì Hoàng lại thản nhiên với một giọng đinh ninh: "Tôi cứ cho rằng dù dân mình có tồi đi nữa, ông cụ xoay quanh rồi cứ độc lập như thường". Lại nữa, lời bốc đồng của Hoàng chẳng được đảm bảo bằng một hành động gì. Nghe anh ta nói thì cứ y như Hoàng đã thấy một minh chủ, một vị cứu tinh, một anh hùng cứu quốc chờ đợi đã bao thế kỷ. Để xứng với những lời to tát đó, nhẽ ra người phát biểu cần phải mau chóng vứt bỏ hết mà tìm về đầu quân, tụ nghĩa, làm một người lính chiến đấu dưới ngọn cờ đại nghĩa của cụ Hồ. Nhưng, cuối cùng chỉ là lời nói suông. Nếu cụ Hồ có thân chinh đến vận động chú Hoàng đi kháng chiến, chắc gì chú Hoàng đã đi. (Cứ cung cách ấy, Hoàng có thể mặc cả lắm chứ: đi kháng chiến có chó becgiê không? có tủ buytphê không? có chăn đệm thoang thoảng nước hoa không? có mía ướp hoa bưởi không?… thì e rằng bấy giờ cụ Hồ cũng chả đáp ứng được).

Những lời tán dương ấy cũng xuất phát từ một cái trí chưa thật sáng. Hoàng là trí thức nửa mùa khi hiểu biết chẳng đến đầu đến đũa. Có thể thấy Hoàng hiểu cuộc kháng chiến bấy giờ và cụ Hồ bằng nhỡn quan của một kẻ quá ghiền Tam Quốc. Nghĩa là hoàn toàn xa lạ, lỗi thời, lạc điệu. Dùng Tam quốc để quy chiếu thời đại mới. Đúng là ở thời Tam quốc (nói đúng hơn là cái thời được mô tả trong "Tam quốc chí" của La Quán Trung), vai trò cá nhân quyết định tất cả. Được thua cốt tại tướng. Cục diện chiến trận ăn nhau ở người đứng đầu. Có khi chỉ nhờ ba tấc lưỡi và vài cái mẹo vặt của chủ tướng có thể biến có thành không, chuyển bại thành thắng, đổi nguy thành an. Nhưng thời đại này khác rồi. Đây là thời chiến tranh nhân dân. "Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến" kia mà. Cá nhân xuất chúng là quan trọng nhưng quần chúng mới là quyết định. Nam Cao đã được giác ngộ kỹ lưỡng về những nguyên lý đó của đường lối chiến tranh nhân dân, trường kỳ kháng chiến. Nhưng Hoàng nói thế nào? "Tôi cho rằng cuộc cách mạng tháng Tám cũng như cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì người lãnh đạo cừ". Đinh ninh thế chẳng phải là quá lạc hậu sao?

Nhìn kỹ ta còn thấy: Hoàng không phân biệt anh hùng và gian hùng. Trong Hoàng có lẽ chỉ có một tiêu chuẩn: siêu sao. Nên cả Đờ Gôn, Hồ Chí Minh và Tào Tháo đều được tán dương nồng nhiệt. Sẽ là không ngoa, khi nói rằng: trong cảm nhận của Hoàng, Cụ Hồ cũng chỉ như một Tào Tháo thời hiện đại (đời mới), thế thôi. Không phải vô cớ mà cái Hoàng tán thưởng ồn ào nhất ở cụ Hồ là "cú Hiệp định sơ bộ ngày mồng 6 tháng 3". Nếu cụ Hồ chỉ có tài "xoay quanh" như thế không thôi thì e rằng Hoàng đã hiểu quá sai lạc phiến diện. Tài đức Hồ Chí Minh đâu chỉ có vậy. Mà nhiệt tình dành cho Tào Tháo xem ra còn ồn ào hơn cả dành cho cụ Hồ. Chả thế mà lời tán dương cụ Hồ khi đã ngừng bặt thì chẳng còn dư âm gì. Trong khi đó những dư âm cuối cùng trong tán dương của Hoàng lại thuộc về Tào Tháo. Chung quy, Hoàng đề cập đến cụ Hồ chỉ theo kiểu một người đọc đang thưởng thức một nhân vật tiểu thuyết, không hơn không kém. Rõ ràng, cả tình cảm và nhận thức của Hoàng về cụ Hồ đều thiếu trong sáng và lệch lạc. Chẳng phải anh ta là một tên "bố vấu" điển hình hay sao!

Cũng cần phải thấy thêm rằng, Nam Cao đã mô tả cả lai lịch và quá khứ của Hoàng để cắt nghĩa cho cái nhìn của anh ta. Nghĩa là lý giải Hoàng rất nhất quán và triệt để. Sở dĩ Hoàng nhìn đời như thế vì Hoàng vốn mang một bản chất như thế. Hoàng nhìn đời bằng "đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ", vì anh ta vốn là kẻ ích kỷ, vô tình. Chẳng phải thế sao! Độ đã nhớ lại cái lối sống dửng dưng trước nỗi khốn khổ cơ cực của bạn bè trong ngày đói quay đói quắt để nhởn nhơ nuôi con chó becgiê với khẩu phần ăn mỗi ngày hai lạng thịt bò. Nhớ lại cái tật đá bạn. Nhớ lại cái hành động hồi nhộn nhạo sau ngày khởi nghĩa, Hoàng đã ra tờ báo và mang cả những bạn bè ra chửi rủa. Lối sống thể hiện một bản chất, bản chất hiện ra thành cách nhìn. Rồi Hoàng nhìn đời bằng con mắt của một tên "bố vấu", vì Hoàng đúng là một kẻ chỉ đứng ngoài cuộc "không yêu cái gì, không làm việc gì, chỉ giỏi chửi đổng". Tóm lại, đôi mắt của Hoàng thiếu hẳn hai thứ: tình người và nhiệt tình cách mạng. Vì thế không hiểu được bản chất, không nhận ra cái đẹp của con người thời đại mới này. Còn Độ thì ngược lại. Không phải Độ không thấy những hạn chế của đối tượng. Nhưng Độ còn thấy được bản chất tốt đẹp ẩn náu bên trong, nhìn nhận ra vẻ đẹp thời đại. Bởi những lẽ đó mà Nam Cao đã tạo ra một tương phản gay gắt. Cùng một đối tượng là anh thanh niên vác bó tre, nhưng trong mắt Hoàng thì đó là hiện thân cho sự lố bịch của thời đại. Trái lại, trong mắt Độ, nó thực sự hiện ra như vẻ đẹp chân chính của thời đại cách mạng ấy. Nói cách khác, trong mắt Hoàng, cái đẹp lập tức biến thành cái xấu, cái lố bịch; ngược lại, trong mắt Độ, cái đẹp đã hiện ra với diện mạo, chân dung đích thực của nó. Nhờ đâu Độ có được cái nhìn như vậy? Nhờ Độ đã nhìn bằng đôi mắt vừa giàu tình người vừa giàu nhiệt tình cách mạng. Sự tương phản giữa Hoàng và Độ là tương phản giữa chính đề và phản đề. Tựa như tương phản giữa ánh sáng và bóng tối vậy.

Chưa cần nói đến những lời bình luận của Nam Cao (trong vai nhân vật Độ) thể hiện cụ thể mạch triết luận, chỉ cần nói đến tình huống truyện, kiểu nhân vật và ngôn ngữ nhân vật được cá tính hóa rất sâu sắc của Hoàng không thôi, cũng đủ cho ta thấy luận đề đôi mắt được thể hiện theo lối triết luận triệt để như thế nào. Chưa có một quan tâm thật cần thiết, sẽ đáng tiếc như thế nào.

________________________________________
Có thể thấy thêm ngôn ngữ nhân vật Hoàng ở khía cạnh giọng điệu. Một giọng điệu kiêu bạc, bề trên, thậm chí có lúc trịch thượng, xách mé. Nhưng do tính chất của bài viết này, đề cập thêm khía cạnh đó e rằng sẽ bề bộn.

(Source: Chu Văn Sơn - Trường ĐHSP Hà Nội)