Jul 3, 2012

Truyện ngắn "Đôi mắt" của Nam Cao



TRUYỆN NGẮN "ĐÔI MẮT" CỦA NAM CAO
Gs. Nguyễn Đăng Mạnh

Nghĩ lại những thành tựu văn học nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, không ai không nhớ đến truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao. Những sáng tác hồi ấy, vừa phục vụ kịp thời, vừa đứng lại được với thời gian như Đôi mắt phải nói rằng chưa có bao nhiêu.

Truyện Đôi mắt đã tạo ra một nhân vật khó quên được: văn sĩ Hoàng. Mỗi lần đọc lại tác phẩm, gặp lại nhân vật này, tôi cứ phải bật cười một mình và thầm thốt lên: Chà, cái anh chàng này, y như một người có thật mà mình đã gặp ở đâu rồi vậy!

Những nhân vật có phẩm chất nghệ thuật như vậy, thường giống nhau ở đặc điểm này: có những chi tiết có vẻ rất ngẫu nhiên, thậm chí vô nghĩa nữa, vậy mà không thể hình dung ra nhân vật ấy đúng như bản chất của nó, nếu gạt đi những chi tiết ấy. Nghĩa là rất ngẫu nhiên mà lại rất tất yếu. Có vẻ vô nghĩa đấy, nhưng không có không được.

Trong Đôi mắt, Độ lần nào đến nhà Hoàng cũng bắt gặp một con chó bécgiê. Ở Hà Nội cũng thế, ở nơi tản cư cũng vậy. Điều ấy có gì là tất yếu đâu! Ấy thế nhưng chúng ta không thể hình dung ra cái anh văn sĩ kiêm chợ đen này đúng như kiểu người và cung cách sống của anh ta nếu không có hình ảnh cái con chó giống Đức to lớn ấy. Cũng như anh ta nhất thiết phải có thân hình to béo, nặng nè, bước đi thong thả, khệnh khạng, bơi hai cánh tay ngắn ngủi kềnh kệnh ra hai bên; nhất thiết phải mặc bộ áo quần ngủ màu xanh nhạt, phủ lên ngoài một cái áo len trắng, quá chật; nhất thiết phải có một cái vành móng ngựa ria cắt xén ngăn ngắn trên mép, nhất thiết phải ngả người ra phía sau và kêu lên những tiếng lâm li trong cổ họng khi nhận ra người bạn cũ; nhất thiết phải cười cùng cục trong cổ như con gà trống…v..v..

Điều thú vị ở đây là những chi tiết kia không chỉ làm cho nhân vật trở thành cụ thể, sinh động, hay nói như các nhà lý luận văn học, không chỉ đóng vai trò cá thể hoá, cá tính hoá nhân vật. Chúng còn thể hiện một cách sâu sắc bản chất xã hội của tính cách, nghĩa là đem đến cho nó giá trị điển hình.

Phải nói rằng, bản thân việc nuôi chó bẹcgiê, cũng như cái thú nằm trong màn đọc Tam Quốc chí, cái thú ăn mía ướp hoa bưởi…v…v… bản thân nó chả có “vấn đề” gì hết. Trong những điều kiện sinh hoạt nào đó, đấy còn xem là những cái giải trí lành mạnh và rất văn hoá nữa. Nhưng đặt vào hoàn cảnh cụ thể của nhân vật Hoàng trong truyện Đôi mắt, thì những chi tiết kia quả đã bộc lộ cả một thái độ sống, hơn nữa, một bản chất chính trị của một loại trí thức trưởng giả rất khó mà hoà nhập với cuộc kháng chiến. Vì thế, không khí của cuộc kháng chiến dù có sôi nổi đến thế nào, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân dù có đổi thay dữ dội đến đâu, vẫn không mảy may tác động đến nền nếp sinh hoạt của vợ chồng anh ta. Nghĩa là vẫn cứ phải xoay được một dinh cơ riêng biệt và rộng rãi như thế, vẫn cứ nhởn nhơ sống kiểu sống an nhàn như thế. Ban ngày nếu không vì quá buồn phải tìm đến mấy ông bạn tuần phủ, đốc học về hưu nào đó để đánh tổ tôm, thì chỉ muốn đóng chặt cổng lại để khỏi bị quấy nhiễu bởi mấy ông uỷ ban hay tự vệ trong làng đến tuyên truyền kháng chiến. Còn buổi tối thì một nếp sống “thiêng liêng” không gì phá vỡ được là… chui vào chăn ấm, buông màn tuyn trắng toát, vừa hút thuốc lá thơm vừa đọc Tam Quốc chí trước khi đánh một giấc ngon lành đến sáng. Anh ta đã sống giữa cuộc kháng chiến mà hoàn toàn cách biệt với cuộc kháng chiến. Cho nên Độ bước vào nhà anh ta, dù ở nơi tản cư, mà như bước vào một thế giới xa lạ hẳn với bên ngoài, và bao nhiêu hy vọng vận động anh ta đi làm báo kháng chiến với mình bỗng chốc tan thành mây khói.

Người ta nói rằng Đôi mắt là chuyện có thật. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp mới bùng nổ, Nam Cao công tác cho một tờ báo địa phương, quê ông. Hồi ấy ông có đi lại thăm viếng một nhà văn nào đó ở Hà Nội tản cư ra. Ai đã từng biết lối viết văn của Nam Cao hẳn thấy điều ấy chẳng có gì xa lạ. Xưa nay, viết về tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, hay viết về nông dân, địa chủ, ông vẫn thường dựa nhiều vào người thực việc thực. (Ngòi bút chân thực đến nghiêm khắc ấy không muốn trí tưởng tượng của mình tung hoành quá tự do chăng ?). Nhưng sự thực ấy đã được nhìn từ chỗ đứng nào, từ ánh sáng nào của những tư tưởng gì ? Muốn biết điều này, cần nhớ rằng Đôi mắt được viết vào mùa xuâ năm 1948 tại Việt Bắc, vài tháng sau khi Nam Cao được kết nạp vào Đảng. Đó cũng là lúc quân dân ta vừa liên tiếp ghi được những chiến công vang dội: Chợ Đồn, Chợ Rã, Bông Lau, Sông Lô v.v… bẻ gẫy cuộc tấn công đại quy mô của giặc Pháp lên Việt Bắc thu đông năm 1947. Đôi mắt được viết xen kẽ với một tác phẩm khác cũng rất đặc sắc của Nam Cao: Nhật ký ở rừng. Đọc tác phẩm này, thấy tâm trạng nhà văn lúc bấy giờ đang náo nức một niềm tin tưởng và tự hào ở cuộc kháng chiến mà ông đã thực sự góp phần vào, đồng thời dào dạt những tình cảm đầy cảm phục trước vẻ đẹp tâm hồn cao cả của đồng bào Việt Bắc mà ông lần đầu được tiếp xúc. Ông ghi vào nhật ký ngày 3-11-1947: “Gần gũi những người Dao đói rách và dốt nát, thấy họ rất biết yêu cách mạng, làm cách mạng chân thành, sốt sắng và tận tuỵ, chúng tôi thấy tin tưởng vô cùng. So sánh họ với mấy thằng “bố vấu” mà Khang gọi là trí thức nửa mùa, Khang rất bất bình đối với hạng này. Chúng nó chẳng yêu một cái gì, chẳng làm một cái gì. Chúng nó chỉ tài chửi đổng.” (Ở rừng – Nam Cao, tác phẩm, tập II, 1977)

Hoàng là một trong những thằng “bố vấu”, có “tài chửi đổng” ấy chăng? Anh ta chẳng làm cái gì hết, trong khi mọi người nỗ lực tham gia kháng chiến. Ích kỷ đại hạng, nhưng động mở miệng là chửi thiên hạ ngu dốt, bần tiệtn – Mà sao những người như thế lại chúa là hay nhân danh đạo đức, nhân nghĩa ? Này đây, hãy nghe người vợ Hoàng phụ hoạ với những nhận xét của chồng về sự mà chị ta gọi là “thiếu tình nghĩa của người dân quê”: “Họ làm chính chúng tôi cũng đâm lo. Có thể nói rằng trong một trăm người thì chín mươi chín người cho rằng Tây không đời nào dám đánh mình. Mãi đến lúc có lệnh tản cư tôi vẫn cho là mình tản cư để doạ nó thôi. Thế rồi, đùng một cái, đánh nhau. Chúng tôi chạy được người chứ của thì chạy làm sao kịp ? May mà còn vớt vát được ít tiền, một ít hàng để ở cái trại của chúng tôi ở ngoại thành. Khéo lắm thì ăn đựơc độ một năm. Đến lúc hết tất nhiên phải khổ rồi. Chỉ sợ đến lúc ấy, họ lại mỉa lại. Thành thử bây giờ lý ra thì có muốn ăn một con gà chưa đến nỗi không mua nổi mà ăn, nhưng ăn lại sợ người ta biết, sau này người ta nói cho thì nhục. Họ tàn nhẫn lắm cơ bác ạ!”

Tôi chắc, khi ôn lại trong tâm trí mình câu nói ấy, Nam Cao đến lộn ruột lên được. Nhưng giọng kể chuyện cứ thản nhiên như không. Ấy, bản lĩnh của ngòi bút Nam Cao là thế: anh nén chặt tình cảm của mình lại để người đọc tự tìm ra ý nghĩa mà càng thêm phẫn nộ - phẫn nộ mà cứ phải bật cười - trước một thái độ hết sức ích kỷ mà cứ nhơn nhơn và ngọt xớt như không.

Nhà văn Tô Hoài còn gọi Đôi mắt là một thứ tuyên ngôn nghệ thuật chung của lớp nghệ sĩ các anh hồi ấy.

Cứ như cái tên của nó thì tác phẩm muốn nói vấn đề cách nhìn, vấn đề quan điểm. Điều ấy đã rõ. Nhưng nói cho chặt chẽ hơn, căn cứ vào nội dung hình tượng, thì nó trước hết là mâu thuẫn về lập trường. Một đằng coi cuộc kháng chiến là của mình và tích cực tham gia kháng chiến. Một đằng tự xem như người ngoài cuộc, từ chối không làm gì hết, dù chỉ là công tác Bình dân học vụ trong làng. Một đằng vui sướng trước cuộc đổi đời của nhân dân, và nhìn cuộc sống mới, tư thế mới và cách mạng đem đến cho nhân dân lao động là tốt đẹp. Một đằng chỉ thấy thế là lố bịch, là hài hước. Nói cho đúng, những nhận xét của Hoàng về người nông dân không phải điều sai cả. Nhưng rõ ràng là thiếu độ lượng, thiếu thiện chí – cái nhìn của một người tuy không phải hoàn toàn không có lòng yêu nước, nhưng tỏ ra chưa tán thành cách mạng và kháng chiến. Lập trường ấy quyết định cách nhìn của anh mà Nam Cao gọi là chỉ thấy có một phía “Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn”, nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo như một con vẹt biết nói kia, anh cũng chỉ nhìn thấy cái ngố bề ngoài của nó, mà không nhìn thấy cái nguyên cớ đẹp đẽ bên trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản.”

Vậy nếu gọi Đôi mắt là bản tuyên ngôn nghệ thuật, thì trước hết đó là bản tuyên ngôn về lập trường cách mạng, lập trường kháng chiến của lớp văn nghệ sĩ tiểu tư sản quyết tâm từ bỏ những quyền lợi ích kỷ của mình, từ bỏ những thói quen sinh hoạt và nếp tư duy cũ, từ bỏ cả cái nghệ thuật cho là “cao siêu” của mình ngày trước, sẵn sàng nói như nhà văn Độ, làm một “anh tuyên truyền nhãi nhép” nhưng có ích cho nhân dân, cho kháng chiến.

Đôi mắt xét ở phương diện khác, còn đặt vấn đề quan niệm về cái đẹp, về đối tượng của nghệ thuật mới nữa. Phải tìm cái đẹp ở đâu? Theo quan điểm nào? Phải thể hiện nó ra sao? Nam Cao có thể chưa ý thức đựơc đầy đủ lắm, nhưng tác phẩm tự nó đã gợi ra và bước đầu giải đáp những câu hỏi đó.

Tôi vẫn nghĩ rằng, không phải đến Đôi mắt, Nam Cao mới đặt vấn đề “đôi mắt”. Đúng là đến tác phẩm này, nhờ đã giác ngộ cách mạng, ông mới đặt được vấn đề ấy một cách hoàn toàn tự giác. Nhưng qua một số truyện ông viết từ trước Cách mạng tháng Tám, đã thấy ông luôn luôn băn khoăn day dứt về vấn đề ấy: phải biết nhìn người nông dân lao động bằng đôi mắt như thế nào mới thấy được bản chất tốt đẹp cho họ, thường ẩn giấu sau một vẻ ngoài hết sức tầm thường, thậm chí vụng về, thô lỗ nữa. Theo Nam Cao hồi ấy, đôi mắt đó phải là đôi mắt của tình thương. Trong Lão Hạc ông đã viết như thế. Ông còn lấy câu nói này để đề từ cho một truyện ngắn khác của mình: “Người chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ, và nước mắt là một miếng kính biến hình vũ trụ.” (Nước mắt – Nam Cao, tác phẩm, tập II) Đúng như thế, ở Nam Cao, nước mắt của tình thương là miếng kính biến hình vũ trụ. Chính nhờ có đôi mắt yêu thương ấy mà nhà văn chẳng những đã nhìn thấy tấm lòng vị tha, xả kỷ của lão Hạc…. mà còn phát hiện ra được cả chất thơ trong trẻo trong tâm hồn tưởng chừng đã hoàn toàn đen độc của Chí Phèo nữa.

Nhưng hồi ấy, tình thương của Nam Cao chỉ mới là thứ tình thương uỷ mị, tiêu cực. Qua “miếng kính” ấy, anh tuy thấy được một số đức tính của người dân nghèo, nhưng dưới ngòi bút của anh, học chỉ là những con người bé nhỏ, bất lực. Và giọng văn của anh thì như anh thường thốt lên – “Chao ôi là buồn!”. Trong Nhật ký ở rừng, Nam Cao đã tự phê phán như thế. Ở Đôi mắt, anh cũng viết như vậy: “Người nhà quê dẫu sao thì cũng còn là một cái bí mật đối với chúng ta. Tôi gần gũi họ rất nhiều. Tôi đã gần như thất vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương (…) Nhưng đến hồi Tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngã ngửa người. Té ra người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng hăng hái lắm. Tôi đã theo họ đi đánh phủ. Tôi đã gặp họ trong mặt trận Nam Trung bộ. Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm…”

Như vậy, nhờ thực sự tham gia cách mạng, sát cánh với nhân dân, Nam Cao đã có được đôi mắt mới để thấy quần chúng không chỉ là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh mà còn là những con người cải tạo hoàn cảnh, tức là những anh hùng. Những con người mới ấy sẽ đi vào văn học như là những nhân vật trung tâm. Đôi mắt chưa xây dựng được nhân vật ấy, nhưng đã chỉ ra phương hướng đi tìm nhân vật ấy và chừng mực nào, đã nói lên cách thể hiện nhân vật ấy: đó không phải là những con người phi thường trong trí tưởng tượng lãng mạn, mà là những con người có thật rất đỗi nhũn nhặn ở quanh ta. Những con người áo vải, răng đen, đi chân đất, gọi lựu đạn là “nựu đạn”, nhưng đã đứng dậy làm cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại và sau đó gánh cả cuộc kháng chiến lên đôi vai vững chải của mình. Phải, Đôi mắt chưa tạo ra được nhân vật ấy, nhưng đã dự báo sự xuất hiện phổ biến của nhân vật ấy trong nền văn học chúng ta.
ST

Đôi mắt - Nam Cao


ĐÔI MẮT
Nam Cao
I . ĐẶT VẤN ĐỀ

Đôi mắt là tác phẩm quan trọng nhất của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám và cũng là tác phẩm xuất sắc nhất của Văn học Việt nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp . Lúc đầu nhà văn đặt tên là Tiên sư thàng Tào Tháo, nhưng sau này Nam Cao đặt cho nó một cái tên giản dị hơn rất nhiều : Đôi mắt . 

Tác phẩm được viết vào mùa xuân năm 1948 . Tác phẩm nhận đường cho văn nghệ sĩ và đặt ra vấn đề cái nhìn, lập trường , quan điểm, chỗ đứng của người nghệ sĩ trong thời đại cách mạng . Như vậy tác giả đã có sự lựa chọn cân nhắc để đặt nhan đề cho tác phẩm , để qua nhan đề làm nổi bật ý nghĩa tư tưởng của truyện ngắn này . 
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .

Đọc Đôi mắt ta hiểu ngay vấn đề cách nhìn quần chúng và cuộc kháng chiến khác nhau giữa những người nghệ sĩ có quan điểm lập trường khác nhau, được thể hiện qua Hoàng và Độ là hai nghệ sĩ, hai nhân vật trung tâm của tác phẩm .

Trước hết ta thấy Hoàng không phải nhìn quần chúng với đôi mắt thù địch . Nhà văn này về cơ bản không phải là một kẻ phản động. Hoàng vẫn có những nét đáng trân trọng như thái độ bộc lộ thẳng thắn những suy nghĩ của mình với nhân vật Độ, lòng ngưỡng mộ chân thành với lãnh tụ một cách ngây thơ.  cũng không nên coi những chuyện Hoàng nói về người nông dân là vu cáo hay xuyên tạc. Tất cả bắt nguồn từ đôi mắt nhìn nhận thời cuộc của cá nhân nhân vật Hoàng .

Nhắc đến điều này để thấy rõ bản lĩnh nghệ thuật của Nam Cao. Ông phát hiện và miêu tả đôi mắt của Hoàng từ nhiều góc độ, không đơ giản, một chiều tạo nên sự chấp nhận dễ dãi từ phía người đọc .

Đôi mắt của Hoàng dần dần được thể hiện qua việc anh kể lần lượt những điều tai nghe mắt thấy một cách hóm hỉnh, sắc sảo . Tài quan sát, tài diến đạt hấp dẫn, cộng với năng lực hài hước hóa , lố bịch hóa những gì mình không ưa thích khiến những mẫu chuyện Hoàng kể thật sinh động .

Bằng đôi mắt của mình, Hoàng cảm nhận người nông dân tham gia kháng chiến toàn là những người vừa ngố vừa nhặng xị, hầu hết đều ngu độn, lỗ mãng, ích kỉ, tham lam bần tiện . Cha con , anh em chẳng tốt với nhau . Các ông thanh niên, các bà phụ nữ mới bây giờ lại càng nhố nhăng . Viết chữ quốc ngữ sai vần mà cứ hay nói chuyện chính trị rối nhặng cả lên . Sắc sảo, có tài quan sát, nhưng Hoàng hoàn toàn không nhìn thấy bên trong việc cảnh giác quá đáng , ham tuyên truyền cách mạng “động thấy ai đi qua là hỏi giấy”, “hay nói chuyện nói chuyện chính trị”, “đọc thuộc lòng cả bài dài 5 trang giấy” về đường lối kháng chiến “như một con vẹt biết nói kia” là bản chất yêu nước, cách mạng của họ .

Cũng xuất phát từ đôi mắt khinh bạc, thiếu thiện cảm với người nông dân nên Hoàng chẳng những chỉ nhìn thấy mặt nhược điểm đáng cười mà còn ít nhiều phóng đại, cường điệu , hài hước hóa mặt nhược điểm đó để chế nhạo, giễu cợt một cách bất nhẫn . Tác giả đã tường thuật cuộc trò chuyện giữa hai vợ chồng Hoàng với Độ như một minh chứng cho sự bất công trong cách nhìn người, nhìn đời của nhân vật Hoàng . Ở đây nhà văn không cố ý đóng cũi tình cảm của mình để người đọc tự nhận thấy kẻ đáng cười, đáng trách không phải là những người nông dân mà chính lại là vợ chồng Hoàng - những kẻ đang ra sức bêu xấu họ .

Chỉ nhìn thấy nông dân ngu dốt, ngây ngô, tất yếu Hoàng không bao giờ tin vào quần chúng nhân dân mà lực lượng chủ yếu là nông dân sẽ đưa cuộc kháng chiến đến thành công, Hoàng rất nản . Tuy vậy, anh ta lại tin vào tài năng của cụ Hồ, “cứ cho rằng dân mình có tồi đi nữa. Ông cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường” điều này chứng tổ bằng cách nhìn phiến diện, Hoàng đã tạo nên một sự đối lập giữa lãnh tụ và dân tộc.

Với đôi mắt nói trên còn tất yếu dẫn Hoàng đến thái độ chỉ giao thiệp với đám người “cặn bã của giới thượng lưu trí thức”, mà anh ta thừa biết toàn những kẻ “thối nát, ngu ngốc, gàn dở, rởm đời”, Hoàng chơi với họ, nhưng có ưa gì họ . Nghĩ cho cùng giữa anh và họ chính là quan hệ của những người cùng hội cùng thuyền . Bởi vậy anh chỉ có thể chơi với họ chứ không cộng tác với những người kháng chiến . Và việc anh “đóng cửa suốt ngày không giám đi đâu nữa” cũng hoàn toàn có thể giải thích bằng đôi mắt’’ nói trên.

Vốn là một nhà văn hiện thực, Nam cao rất có ý thức giải thích một cách hệ thống toàn diện dĩ nhiên bằng các chi tiêt nghệ thuật “đôi mắt” của Hoàng .
Hoàng vốn là một văn sĩ trưởng giả, nhân cách thấp kém “có cái tật hay đá bạn”, trong khi đồng nghiệp “chỉ còn một dúm xương’’ trong nạn đói năm 1945 thì “ Hoàng vẫn phong lưu” nhờ tài … chạy “ chợ đen rất tài tình” và “con chó của anh vẫn chưa phải nhịn đói bữa nào” .

Đặc biệt, khi kháng chiến bùng nổ, bao tầng lớp nhân dân đặc biệt là nông dân sẵn sàng chịu đựng gian khổ thiếu thốn, hi sinh đóng góp sức lực cho cuộc kháng chiến, thì Hoàng vẫn giữ nguyên cách sống cũ, ích kỷ, co mình lại trong vỏ ốc gia đình với những bữa ăn ngon, những món quà vặt lạ miệng, với nhà cửa khang trang với nếp sinh hoạt trưởng giả: Nuôi chó dữ, đọc truyện Tam quốc trước khi đi ngủ, hút thuốc lá thơm, nằm màn tuyn trắng toát, chăn đắp thoang thoảng nước hoa… Hoàng hoàn toàn dửng dưng trước thời cuộc, tách mình ra khỏi sự nghiệp chung của nhân dân của đất nước. ( dĩ nhiên trong hoàn cảnh bình thường, chúng ta có thể nghĩ khác về Hoàng).

Như vậy ở nhân vật này thiếu hẳn sự gắn bó với những người lao khổ ,nói rộng là thiếu sự gắn bó với nhân dân với đất nước ,thiếu cội nguồn nhân đạo cần thiết của một nhà văn . Do đó, “đôi mắt” nhìn người nông dân của Họàng trước trước sau không hiểu nổi người nhà quê, không hiểu cuộc kháng chiến là diều có thể giải thích được .

Đối lập với Hoàng là Độ . Thực ra , phân tích đôi mắt của Hoàng đã hàm chưa việc phân tích đôi mắt của Độ, vì hai nhân vật này được xây dựng để bổ sung cho nhau, làm rõ luận đề của tác phẩm . Vả lại, nhân vật Hoàng đã được miêu tả dưới đôi mắt của Độ .

Trước hết, Độ cũng không thấy ít những điểm yếu của những người nông dân : răng đen, mắt toét, phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhác sợ, nhịn nhục một cách đáng thương … Nhưng điều quan trọng hơn, Độ nhìn thấy được nét chủ yếu trong con người họ . Đó là bản chất tốt đẹp của người nhà quê . Theo anh họ có thể làm cách mạng , mà bằng chứng hùng hồn nhấtt là lúc ra trận, giáp mặt với cái chết, chính anh cũng thấy họ xung phong can đảm lắm . Tin vào sức mạnh của nông dân, cũng có nghĩa là Độ tin vào tương lai của cuộc kháng chiến .

Sở dĩ Độ có được đôi mắt nói trên không phải chỉ vì anh đã sống ở nhà quê nhiều, mà điều quan trọng hơn là anh yêu mến và đã tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với nông dân, với sự nghiệp chung của cả dân tộc .ngay từ ngày tổng khởi nghĩa, độ đã theo nông dân “đi đánh phủ’’. Sau cách mạng, anh “đã gặp họ trong mặt trận Nam Trung Bộ”’. Từ một nhà văn, Độ sẵn sàng làm người “tuyên truyền nhãi nhép’’ cho cách mạng, anh có thể “ngủ ngay trong nhà in đèn sách và máy chạy ầm ầm’’…

Tóm lại, bằng truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao đã khắc họa hai cái nhìn ( mà thực chất là hai tính cách, hai con người) khác hẳn nhau. Nhà văn biểu dương “đôi mắt’’ đúng đắn của Độ - người nghệ sĩ gắn sự nghiệp của mình với quần chúng, tích cực tham gia kháng chiến; phê phán “đôi mắt’’ chua chát chán nản của Hoàng - một kiểu trí thức ích kỷ, tách mình ra khỏi sự nghiệp chung của dân tộc. Qua đó Nam Cao khẳng định : Nhà văn trước hết phải đứng trên lập trường của người công dân có trách nhiệm với cuộc kháng chiến, phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, kể cả văn chương nghệthuật, và có cái nhìn mới về người lao động - những con người bình thường nhưng vĩ đại. Đồng thời, nhà văn muốn viết đúng phải có “đôi mắt’’ nhìn nhận đúng; muốn nhìn nhận đúng phải có tấm lòng nhân ái.

Chính vì lẽ đó mà nhà văn Tô Hoài coi tác phẩm Đôi mắt là bản tuyên ngôn nghệ thuật của cả một lớp nhà văn cũ đi theo cách mạng . Bởi nó đề cập được đến vấn đề đôi mắt của người nghệ sĩ, của nhà văn trong kháng chiến . Đôi mắt ở đây chính là cách nhìn người, cách nhìn đời; nói khái quát hơn là vấn đề quan điểm, lập trường của người trí thức văn nghệ sĩ đối với cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc và người nông dân - lực lượng nòng cốt của cuộc kháng chiến .

Đôi mắt là một truyện ngắn nhưng đã nêu được vấn đề lớn: Vấn đề thế giới quan của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật. Sau ngót nửa thế kỷ, đến nay, điều ấy vấn có ý nghĩa mới mẻ. 

Qua phân tích “đôi mắt’’ của Hoàng và ‘’đôi mắt’’ của Độ, chúng ta không những khâm phục chất trí tuệ sắc sảo, thâm trầm của Nam Cao, mà còn trân trọng tấm lòng gắn bó sâu nặng với nhân dân với đất nước của một nhà văn luôn phấn đấu cho những gì tốt đẹp trên đời.

III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ .

Truyện ngắn Đôi mắt là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao sau cách mạng tháng Tám . Đó là tác phẩm ưu tú của văn học Việt Nam thời kì đầu kháng chiến . Tác phẩm không chỉ đơn thuần phản ánh đôi mắt của cá nhân mà còn lớn hơn, khẳng định vấn đề lập trường quan điểm của văn nghệ sĩ . Điều đó đã nâng tác phẩm lên một tầm cao mới, xứng đáng là bản tuyên ngôn nghệ thuật cho cả một thế hệ nhà văn như nhận xét của Tô Hoài .

Nguồn: Sưu tầm

Tác phẩm "Một người Hà Nội" của Nguyễn Khải



NGHĨ VỀ "MỘT NGƯỜI HÀ NỘI" CỦA NGUYỄN KHẢI

Phan Huy Dung


Một người Hà Nội là truyện ngắn giàu tính triết luận, được sáng tác trong bối cảnh đổi mới văn học sau 1986. Triết luận vốn là một nét trội trong phong cách văn xuôi Nguyễn Khải thuộc giai đoạn sáng tác từ cuối những năm bảy mươi (của thế kỉ XX) trở đi, gắn liền với việc soi xét đối tượng dưới các góc độ văn hoá, lịch sử và triết học. Trước đó, sáng tác của Nguyễn Khải đầy ắp cảm hứng chính luận, chuyên đề cập các vấn đề thời sự, chính trị của đất nước và thường lấy tiêu chí chính trị, đạo đức cách mạng để bàn luận, đánh giá sự kiện, con người. Rõ ràng, sự chuyển đổi từ cảm hứng chính luận sang cảm hứng triết luận đánh dấu một bước phát triển đáng ghi nhận trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Hứng thú quan sát, thể hiện những vấn đề thế sự, đặc biệt là vấn đề khẳng định bản lĩnh cá nhân của con người giữa một hoàn cảnh sống mà cái "tôi" chưa được nhìn nhận công bằng, thoả đáng, tất cả đều liên quan tới việc chuyển đổi cảm hứng nói trên. Các sáng tác lúc này vẫn không thiếu tính thời sự, nhưng giá trị của chúng đã vượt ra khỏi cái khung thời sự nhất thời để gây ám ảnh lâu dài. Việc nhà văn có ý thức tô đậm kinh nghiệm, thể nghiệm của cá nhân mình trong việc trình bày mọi vấn đề đã làm cho những trang viết của ông thấm đượm tinh thần đối thoại dân chủ, thoát li dần kiểu áp đặt chân lí một chiều trước đây.

Với một sáng tác mang tính triết luận, việc xếp đặt các nhân vật được miêu tả trong đó vào các phạm trù tốt - xấu, chính diện - phản diện quen thuộc một thời đã trở nên bất cập. Sự đánh giá về nhân vật có thể rất đa chiều. Lời khen hay lời chê của tác giả (thể hiện qua nhân vật kể chuyện xưng "tôi") lúc này cũng chỉ có giá trị tham khảo thuần tuý, không hề mang tính chất "chân lí", không phải là kết luận tối hậu. Trong Một người Hà Nội ", "tôi" nhìn nhận bà Hiền là "một hạt bụi vàng", đó là quyền của "tôi". Người khác có thể có cách nhìn nhận khác, tất nhiên, không thể không tham khảo cách nhìn có tính chất gợi ý mà "tôi" đưa ra. Nếu không hiểu nguyên tắc đánh giá này, lại lấy cách xây dựng nhân vật trong truyện của Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác trước làm hệ quy chiếu, độc giả rất dễ có những phán quyết vô lí về tác giả trên các vấn đề quan điểm, lập trường chính trị, hoặc ngược lại, ra sức tán dương nhân vật bà Hiền, gán cho bà những phẩm chất tốt đẹp (theo mong muốn hay tưởng tượng, suy diễn của chính độc giả) mà bản thân nhân vật "tôi" không nói tới trong câu chuyện của mình.

*
* *

Nếu căn cứ vào những gì đã được thể hiện trong truyện ngắn, độc giả có thể đặt lại tên tác phẩm Một người Hà Nội thành Nghĩ về một người Hà Nội. Dĩ nhiên, đây là đặt cho mình, nhằm mục đích lĩnh hội đúng tinh thần tác phẩm, cảm nhận đúng ý nghĩa của "thành phần" suy nghĩ trong kết cấu truyện ngắn này. Quả là chuyện kể không có gì thật đặc biệt, nhưng suy nghĩ, đánh giá của nhân vật "tôi" thì lại chứa đựng nhiều điều thú vị. Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Khải vốn là thế : tỉ trọng những lời phân tích, bình luận bao giờ cũng lớn, nhiều khi lấn át cả sự miêu tả, trần thuật khách quan về đối tượng.

Viết Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến chưa hẳn là ca ngợi một con người, cho dù người đó đáng ca ngợi bao nhiêu đi chăng nữa. Cảm hứng chính của ông là khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội – cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước phát triển mới của nó trong tương lai. Không phải ngẫu nhiên mà khi ngắm hình ảnh bà Hiền "lau đánh cái bát bày thuỷ tiên", ông đã có một ghi chú tưởng như là bâng quơ : "nếu là một thiếu nữ thì phải hơn"[1], rồi cảm thán : “thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội". Cũng hoàn toàn hợp lô gích việc nhà văn đã kết lại truyện ngắn như thế này : "Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng !". Lô gích thì lô gích nhưng vẫn lạ. Ai đã từng quen với giọng văn tinh sắc, tỉnh táo, thậm chí là "lọc lõi" của Nguyễn Khải, hẳn phải ngỡ ngàng trước cái giọng "bốc" lên khá đột ngột mà nhà văn biểu lộ ở đây. Một chút giỡn đùa với chính văn mình hay niềm xúc động tận đáy tâm can cứ bật ra không nén được ? Trả lời quyết hẳn theo bề nào cũng khó, nhưng điều có thể khẳng định chắc chắn là : Nguyễn Khải thật sự yêu quý Hà Nội, có những suy nghĩ thâm trầm về "đất kinh kì" và tha thiết được thấy một Hà Nội hiện đại, đẹp, sang, xứng với bề dày văn hoá truyền thống của nó. 

Hình tượng bà Hiền được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con của nó. Bà Hiền không phải là một "tấm gương" kiểu mẫu hiểu theo nghĩa thông thường để các tổ chức xã hội nêu lên cho mọi người học tập, theo cách người ta vẫn thường làm nhằm mục đích tuyên truyền, vận động. Bà chỉ là người dân bình thường, dù xuất thân là con nhà "tư sản", dù đã có một thời "vang bóng" (mà thực ra, "tư sản" thì cũng có thể là người dân bình thường được chứ !). Tác giả (và người kể chuyện) hiểu vậy nên chọn cách giới thiệu, chuyện trò về bà thật dung dị. Bà là một người bà con xa, người dì họ của "tôi", thế thôi ! Mọi việc bà làm đều tự nhiên, như cuộc sống hàng ngày, chẳng gây chấn động gì tới xung quanh cả. Ấy vậy, ai dám bảo chất Hà Nội ở bà không đậm đặc ? Vả lại, muốn khám phá bề sâu văn hoá của một vùng đất, tuyệt đối không được bỏ qua những điều tưởng là nhỏ nhặt. Nhiều khi chính chúng lại cung cấp cứ liệu thuyết minh về vấn đề có sức nặng hơn hẳn những chuyện to tát. Dõi theo mạch kể của nhân vật "tôi", người đọc thấy quả không có gì đáng gọi là "sự kiện" việc bà Hiền lấy chồng, quản lí gia đình, sinh con, dạy con, cho con đi bộ đội, tiếp khách, bài trí nơi ở, duy trì nếp sinh hoạt riêng,... 

Một câu bình phẩm của "tôi", rằng, việc bà lấy ai không lấy, lại lấy một ông giáo cấp tiểu học hiền lành chăm chỉ làm chồng đã "khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc", phần nhiều chỉ là một cách nói ngoa ngôn khá đặc thù của văn chương. Nếu quả người ta có kinh ngạc, thì đó là sự kinh ngạc trước một chuyện không ngờ lại xảy ra bình thường (thậm chí là tầm thường) quá như thế. Tuy vậy, nếu bình tâm suy xét, ta lại thấy trong tất cả những cái bình thường kia lại chứa đựng một triết lí sống đáng vị nể, vừa thể hiện bản lĩnh cá nhân một con người, vừa bộc lộ kiểu ứng xử đặc trưng của đất kinh kì. Bà Hiền biết rõ mình là ai (câu tuyên bố "thẳng thừng" của bà đối với nhân vật "tôi" đã chứng thực điều đó : "Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ"), và cũng tương tự thế, bà hiểu sâu xa mình là người Hà Nội. Sau năm 1954, gia đình bà chẳng di cư vào Nam vì "không thể rời xa Hà Nội". Đây không đơn giản chỉ là một biểu hiện của tình yêu đối với nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, mà còn là một biểu hiện của niềm tin vào thế tồn tại bền vững của mảnh đất đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, có văn hoá riêng đã thấm vào máu thịt cư dân nơi này. 

Bà Hiền có thể không nghĩ một cách rành rọt như vậy, nhưng tác giả và nhân vật "tôi" – một sự hoá thân của ông – thì ý thức về điều này quá sâu sắc. Nhân vật "tôi" cũng khó lòng quên lời bà Hiền răn lũ con của anh : "Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng". Hoá ra vậy, làm người Hà Nội vừa là một vinh dự, vừa là một trách nhiệm. Bà Hiền hẳn là luôn đau đáu về vấn đề này, chẳng thế mà dù đã ngoài bảy mươi, bà vẫn để lộ tâm sự đó của mình khi hỏi người cháu ("tôi") vừa mới từ thành phố Hồ Chí Minh ra thăm : "Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá thế nào, dân tình thế nào ?" Ngỡ đó chỉ là một câu hỏi xã giao thông thường mà thực chất lại gửi gắm bao nỗi niềm, bao phấp phỏng và hi vọng về tương lai của Hà Nội. 

Những điều vừa nói trên chứng minh sự gắn bó làm một, rất máu thịt, giữa bà Hiền và Hà Nội. Nhưng cốt lõi ứng xử của người Hà Nội được thể hiện qua bà Hiền là cái gì ? Khi kể về bà, nhân vật "tôi" rất hay nói đến chữ tính : "tính thế là đúng", "Mọi sự mọi việc đều được các bà tính trước cả. Và luôn tính đúng...", "đã tính là làm", "Cô tôi tính toán việc nhà việc nước đại khái là như thế", "cô muốn mở rộng sự tính toán...". Dĩ nhiên, đã "tính đúng" thì người đó là người khôn ("cô khôn hơn các bà bạn của cô"), người "có đầu óc rất thực tế", biết thích ứng. Với người "khôn", mọi điều khó mấy xem ra cũng có thể thu xếp được một cách khá nhẹ nhàng : là "tư sản" mà khi ở với chính quyền mới, gia đình bà Hiền không bị hề hấn gì, bà lại có khả năng nuôi cả gia đình đủ ăn mà không phải dính dáng gì tới hai chữ "bóc lột"... Bà Hiền có thể "cười rất tươi" – một kiểu cười quá đỗi tự tin – khi ông cháu thóc mách : "Tại sao cô không phải học tập cải tạo, cô giấu cũng tài nhỉ ?" Nói ra toàn những chuyện như thế về bà Hiền, phải chăng tác giả muốn kết luận rằng cái "bản sắc" của người Hà Nội là tính và khôn ? Sự thực hoàn toàn không phải thế. Đằng sau mỗi câu chuyện kể về bà Hiền, tác giả luôn luôn cho ta thấy sự tồn tại của một bản lĩnh sống vững vàng, một khả năng tự ý thức rất cao, một lòng tự trọng không thể nghi ngờ. 

Tự trọng ở đây gắn liền với việc không để mình rơi vào tình trạng nhục nhã, sống giữ được cốt cách và đặc biệt là không quên trách nhiệm với cộng đồng (một tinh thần trách nhiệm không cần tuyên bố ồn ào, bốc đồng, hời hợt). Những lời thổ lộ của bà Hiền xung quanh việc bằng lòng cho hai đứa con đi bộ đội thể hiện rõ điều này : "Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng", "Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó", "Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì"... Không phải không có những ngộ nhận về tính cách người Hà Nội. Trong truyện, tác giả đã khéo tạo ra một tình huống để làm rõ vấn đề này. Trong khi nhân vật "tôi", giữa một bữa tiệc, đã "nói hơi nhiều" những ý chê trách Hà Nội trong sự so sánh nó với những vùng miền khác, thì nhân vật Dũng, con bà Hiền, mới từ chiến trường miền Nam trở về, đã kể cho mọi người nghe về phản ứng tâm lí của một người mẹ Hà Nội có con hi sinh : "Bà níu chặt lấy một cánh tay của cháu, người bà run bần bật nhưng không khóc, và bà nói run rẩy : "Nín đi con, nín đi Dũng ! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi". Đúng là một sự đối trọng. Câu chuyện của Dũng tự nó nói lên bao điều !

Ta đã phân tích khả năng tính của bà Hiền, một người Hà Nội. Tính không phải bao giờ cũng gắn với thói thực dụng. Nhiều khi, nó là đòi hỏi bắt buộc của một cách tồn tại giữa thời cuộc có nhiều thay đổi, xáo trộn khó lường. Bà Hiền quá nhạy cảm về vấn đề này. Bà có chính kiến, chủ kiến riêng về nhiều chuyện "vĩ mô" của nhà nước, chế độ. Khi đứa cháu nói : "Nước được độc lập vui quá cô nhỉ ?", bà đã trả lời : "Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ ?". Theo bà "Chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở...". Bà cũng nhận ra có cái gì đó không phù hợp trong cách nghĩ "không thích cá nhân làm giàu" : "Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám". Đặc biệt, bà có một quan điểm hết sức khác thường : "Xã hội lúc nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị...". Chưa hết, bà còn phát biểu về cái huyền vi của sự sống mà càng ngày ta càng phải thừa nhận : "Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được". 

Như vậy, trong cái tính của bà Hiền có chứa đựng một "tầm nhìn xa" đáng để cho nhân vật "tôi" phải thốt lên khâm phục : "Bà vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc...". Chính tầm nhìn xa có ở bà Hiền, rộng ra là có ở nền văn hoá của đất kinh kì đã tạo nên cái mà trên kia ta đã gọi là thế tồn tại uyển chuyển và ngoan cường của Hà Nội, vượt lên trên mọi ba động của đời sống chính trị. Chi tiết bà Hiền kể cho nhân vật "tôi" nghe về sự hồi sinh sau cơn bão của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn mang ngụ ý triết lí sâu sắc. Các nhân vật trong truyện dường như chỉ "luận" về sự kiện này xoay quanh sự tiếp nối của nhiều thế hệ người Hà Nội. Kì thực, ý nghĩa của nó trong cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm còn lớn hơn thế. Cũng cần lưu ý : nhiều quan điểm được nói ra từ miệng bà Hiền cũng là cái mà nhân vật "tôi" và tác giả tỏ ra tâm đắc. Lời trần thuật khách quan về đối tượng đã quyện chặt với lời phân tích mang theo cách đánh giá riêng của người viết. Đây quả là một nét đặc sắc của văn Nguyễn Khải – một nhà văn vẫn được nhiều người viết khác cùng thế hệ bái phục về "năng khiếu" có thể gài lồng được vào sáng tác của mình những tư tưởng riêng đầy táo bạo, không dễ phát ngôn, về đời sống.

Nói về "dân" Hà Nội, người ở nhiều vùng miền khác vẫn thường thừa nhận thanh lịch là đặc điểm nổi bật. Vậy, ở một người khôn ngoan, giỏi tính toán như bà Hiền, nét thanh lịch ấy có tồn tại không và nếu có thì nó được biểu hiện như thế nào ? Thực ra, không hề có sự đối chọi nào giữa các phẩm chất ấy trong con người bà Hiền cả. Đừng lầm về kiểu xưng hô bỗ bã của bà đối với con cháu (vốn nó biểu hiện rõ tư cách của con người quyết đoán, ý thức mình là "nội tướng" trong gia đình), mà hãy nhìn vào thực chất của vấn đề, biểu hiện qua thái độ chu tất trong nết ăn, nết mặc, trong cử chỉ lau đánh cái bát đựng hoa thuỷ tiên, trong việc duy trì một cách "bướng bỉnh" cái nền nếp sinh hoạt xa lông một thời vẫn thường bị định kiến là "tư sản". Không, trong ngày thường, một người như bà Hiền đã hoà nhập rất tốt vào cuộc sống chung, cũng "áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu". 

Nhưng bà, cũng như các bạn của mình, không vì vậy mà không được quyền sống cho mình. Họ, lúc cần, đã biết rũ bỏ "đồng phục" để hoá thân thành những con người khác, đáng để cho những kẻ yêu cái đẹp ngắm nhìn : "bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển". Tất cả những điều đó cũng là biểu hiện cụ thể của bản lĩnh sống – một vấn đề hết sức nghiêm túc cần được nhìn nhận thấu đáo trong hoàn cảnh sống của đất nước, của thời đại bây giờ.

Nhìn chung, bà Hiền đúng là một người Hà Nội, dù bà không thuộc "típ" điển hình quen thuộc mà văn học cách mạng một thời ưa xây dựng trong cảm hứng ngợi ca. Dĩ nhiên, bà cũng đã dành được sự ngợi ca, quý trọng rất mực của nhân vật "tôi", của tác giả, nhưng đây là sự ngợi ca, quý trọng xuất phát từ một tiêu chí đánh giá khác với trước. Cái lõi của tiêu chí đó chính là sự khẳng định bản lĩnh cá nhân của con người trong đời sống – điều sẽ khiến cho con người trong khi biết thích ứng với thời đại thì vẫn đóng góp được nhiều cho việc cải biến, cải tạo môi trường tồn tại của mình theo hướng tích cực. 

Viết về một mẫu người như bà Hiền, văn Nguyễn Khải trở nên khoái hoạt hơn bao giờ hết. Hoàn toàn có thể nói bà Hiền chính là nhân vật lí tưởng (không nhất thiết phải là nhân vật anh hùng, nhân vật phi thường) của sáng tác Nguyễn Khải giai đoạn từ khoảng 1978 trở đi (theo sự tự phân chia của chính nhà văn). Qua bà cũng như qua các nhân vật khác thuộc loại này, nhà văn đã thực sự có đóng góp cho việc dân chủ hoá hoạt động sáng tác văn học nước nhà. Các thước đo về con người, cuộc sống trở nên đa dạng hơn, và chính điều đó đã kích thích tinh thần đối thoại ở độc giả. Thì đó, nhân vật "tôi" trong tác phẩm đâu có được xây dựng như một con người nắm giữ chân lí, có quyền đưa ra lời phán quyết sau cùng về mọi sự. Anh ta đã từng hiện lên như một kẻ khôn ranh, ứng xử thiếu đàng hoàng với người cô "tư sản" (không ghi tên bà Hiền trong lí lịch cán bộ), một kẻ tự thị vô lối khi đưa ra những lời nhận xét hấp tấp về Hà Nội trong một bữa tiệc. Anh ta cũng có thể sai, cũng phải chịu lời phản biện từ chính thực tế cuộc sống. Biết nghĩ về sự "nín lặng" (không đồng nghĩa với sự chấp thuận) của người khác thì cũng đồng nghĩa với việc tự mình biết sẵn sàng nín lặng khi những "ý thức" khác cất lời. Sự hấp dẫn của văn của Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai chính được đưa tới từ đặc điểm giàu tính đối thoại dân chủ này.

Dù không có ý áp đặt cho ai về cách đánh giá một con người, cụ thể ở đây là bà Hiền, Nguyễn Khải, thông qua nhân vật "tôi", vẫn có khả năng tạo được sự tán đồng của người đọc khi ông đưa ra nhận xét : bà Hiền chính là một người Hà Nội, tuy chỉ là hạt bụi nhưng đó lại là hạt bụi vàng của đất kinh kì ! 
ST

MÙA LẠC - Nguyễn Khải




MÙA LẠC
Nguyễn Khải

I . ĐẶT VẤN ĐỀ .

Nguyễn Khải là một trong những cây bút nổi tiếng thuộc thế hệ các nhà văn trưởng thành từ sau cách mạng tháng Tám . Trong thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng như nhiều nhà văn khác, Nguyễn Khải tập trung miêu tả sự thây đổi to lớn trong đời ssống mới . Năm 1960 ông cho ra đời tập truyện ngắn “Mùa lạc” trong Mùa lạc là một trong những tác phẩm thành công nhất bởi nó đề cập đến vấn đề khám phá cuộc sống, khẳng định ý nghĩa của cuộc sống mới trong việc làm thay đổi số phận con người . Trong đó nhân vật Đào là điển hình cho sự vận động hồi sinh đó .

II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .

Mùa lạc mở đầu bằng một hình ảnh toàn cảnh rất điện ảnh . Tưởng ống kính nhà văn đang lướt nhanh trên cánh đồng phía tây Hồng Cúm qua màu xanh lặng lẽ của lá lạc, lá cỏ nghệ và rút đòng . Thị giác của người đọc loãng ra trong không gian mênh mông của bãi lạc , chợt có tiếng động ù ù, lạo xạo của máy móc, rồi từ trung tâm của cảnh hiện ra những chiếc máy tuốt lạc giữa bụi và âm thanh . Và trung tâm của bức tranh lao động đó là hình ảnh cặp đoàn viên của đội sản xuất số 6 : đó là Đào và Huân . Trong đó đáng chú ý là Đào . Nhân vật của chúng ta hiện lên mở đầu tác phẩm là như thế , và cũng từ thủ pháp rất điện ảnh đó, nhân vật Đào bộc lộ một cách trọn vẹn con người, tính cách ...

Đào là người gặp một lần là nhớ mãi . Đào không xinh đẹp, trái lại chị có những nét thiếu hoà hợp đến thô mộc . Hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, hoà hợp với hàm răng khểnh của người luon ưa đừa cợt . Đặt Đào bên cạnh Huân, chàng thanh niên đẹp trai nhất đội , đang trong độ xuân sức càng làm nỏi bật sự thua thiệt về mặt hình thức của chị , và như thể đó là trò đùa của tạo hoá . Chị ít duyên dáng đến độ sồ sề . Cái đầu nhọn, đôi chân ngắn ngủn,bàn tay có những ngón rất thô . Song ẩn đằng sau những nét thiếu duyên dáng ấy lại là cái tinh tường bẩm sinh hiếm thấy . Phải chăng đôi mắt dài lóng lánh của Đào chính là điểm sáng trên dung nhan của chị ? Nó báo trước một tính cách khác thường .

Đào sắc sảo ngay trong lời ăn tiếng nói . Chị thuộc nhiều ca dao, tục ngữ và rất linh hoạt khi vận dụng . Ngôn ngữ đối thoại của Đào vì thế rất ấn tượng, chứa đầy mặc cảm, nhưng cũng tự tin đến mức tàn nhẫn . Xót xa về thân phận mình , chị cất lên thành lời : Các anh đã biết đời em rồi đấy . Mỗi năm một tuổi , cái tuổi nó đuổi xuân đi . Hoặc là : Trâu quá sá, mạ quá thì, hồng nhan bỏ bị còn gì là xuân . Nhưng ý thức về cái tôi trong Đào cũng vô cùng mạnh mẽ . Biết mọi người đùa ác khi gán ghép mình với Huân, chị đã đốp chát không kém phần ngoa ngoắt , bởi “việc gì phải tủi, phải nhún nhường, người nào mà chả có phần tốt đẹp” . Với một người nghèo xấu xí, lỡ làng và trơ trọi như Đào thì đấy là phương thức duy nhất để đáp lại sự coi thường và những trò tai quái của người đời . Chỉ một câu ca dao bật ra bất ngờ nhưng Đào đã khiến mọi người kinh ngạc : Huê thơm bán một đồng mười . Huê tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng . Đúng là đáo để thật nhưng không phải là không có xót xa , cay đắng . Có lẽ chỉ nên hiểu cái đanh đá , chanh chua đấy là một phương cách để có quên đi nỗi đau và giấu cho đừng ai nhìn thấy những giọt nước mắt đọng trong tâm hồn vẫn còn chưa kịp ráo .

Cũng qua ngôn ngữ đối thoại, ta thấy Đào là một người già dặn, trải đời . Nhưng cũng chính sự mạnh mẽ này đã làm nảy sinh những điểm yếu như một mâu thuẫn không thể khác được . Đào gồng mình lên để sống, chị chao chát, bướng bỉnh đến góc cạnh . Vậy mà trái tim chị luôn rỉ máu khi nghe những câu nói đùa cửa miệng của Lâm . Lần nào nghe những câu nói ấy chị cũng buồn tủi như chợt được biết lần đầu về mình . Chỉ một trò đùa ghép đôi đầy bỡn cợt, với Đào cũng là một nỗi ám ảnh , một khắc khoải khôn nguôi . Cuộc đời đầy khỏ đau đã biến Đào thành một con nhím luôn xù lông tự vệ .

Quả thực quá khứ của đào đầy rẫy những bất hạnh . Sinh ra chị đã khổ , những nỗi khổ truyền kiếp của phụ nữ nông thôn Việt Nam . Nhà nghèo không có ruộng, chị làm nghề đậu phụ . Thời địch tạm chiếm lại xoay sang ủ men nấu rượu . Lấy chồng từ năm 17 tuổi nhưng gặp phải anh chồng cờ bạc bỏ đi Nam . Trở về sống với nhau chưa được bao lâu thì ốm chết . Mấy tháng sau , đứa con trai lên hai tuổi cũng bỏ chị mà đi . Không còn gia đình, không nơi nương tựa, Đào bơ vơ không biết bám víu vào đâu . Chị ngược xuôi buôn bán , đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà , ngã đâu là giường . Những tháng năm cơ cực, lang thang đã làm biến đổi cả diện mạo của chị . Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn nhang nổi càng nhiều . Cảnh đời trên đã đưa Đào đến những tâm trạng, tính cách : Muốn chết nên đời còn dài nên phải sống , một cuộc sống vô hồn , vô nghĩa. Đào sống để quên đi những ngày tháng đã qua, còn cuộc sóng những ngày sắp tới chị cũng khong cần biết . Chị sống táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người và hờn giận cho thân mình .

Nhưng dù sao Đào vẫn là một phụ nữ, cũng có những khát khao hạnh phúc , tình thương yêu và một mái ấm gia đình . Thỉnh thoảng, lúc ốm đau, yếu đuối, nằm nhờ nhà người quen, bưng bát cơm nóng, nhìn ngọn đèn dầu, khát khao ấy lại bùng lên, giằng xé mãnh liệt hơn. Nó thành một nỗi đau sâu kín không thể lên da non, một nỗi đau tàn nhẫn . Một con người sắc sảo, thông minh, có đầy đủ khả năng làm vợ, làm mẹ như mình mà lại chịu cảnh “ôm đèn lẻ bóng năm canh” ư ? Đào đã gượng dậy, gồng mình lên chống chọi với cuộc đời nghiệt ngã . Người ta chỉ còn thấy ở Đào một cá tính táo tợn, một tính cách đanh đá, một cách sống bất cần đời . Nhưng từ thẳm sâu tâm hồn , Đào mệt mỏi và đáng thương biết bao . Chỉ cần tồn tại thôi, không còn cảm giác sống theo đúng nghĩa của nó nữa . Để rồi một ngày một mệt mỏi như con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân . Chị tìm đến nông trường Điện Biên, những mong yên thân sống nốt quãng đời còn lại nơi miền đất xa xôi ấy , chị vẫn tồn tại suy nghĩ, lo lắng, sợ hãi có thể gặp nhiều điều đau buồn hơn . Bởi thế chị sống thu mình lại, nếu ai chạm đến , Đào sẵn sàng giương nanh vuốt ra ngay . Lưng vốn ca dao, tục ngữ mà Đào tích cóp được từ sương gió cuộc đời đủ để giúp chị sử dụng như một thứ vũ khí tuỳ thân . Thế nhưng một nghịch lí : những khát khao, những ước vọng vẫn bùng cháy trong Đào . Mỗi buổi đi làm, cùng nhổ lạc ở một khoảnh, cùng đứng tuót ở một máy, nhìn đôi cánh tay cuồn cuộn những thớ thịt cháy nắng đỏ rực của Huân thoang thoảng bên cạnh, chị lại bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hi vọng cuộc đời mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì đó chưa rõ nét nhưng đằm ấm hơn, tươi sáng hơn những ngày đã qua cứ lấp loé ở phía trước . Một câu hỏi cứ vương vấn mãi trong Đào: Có thể đấy là cuộc đời còn lại của chi chăng ? Đào biết sự chênh lệch giữa mình và Huân nhưng Đào vẫn cần đén Huân, vì hơi thở, nụ cười, vì lòng tốt và một sức lực cường tráng của anh, tất cả đều có thể đốt cháy lên trong Đào niềm hi vọng khác lớn hơn : Hi vọng cuộc đời mình chưa phải đã tắt hẳn ...

Và niềm hi vọng ấy của Đào đã được hồi sinh trên mảnh đất Điện Biên này sau suốt một chặng đường đời dài Đào long đong và bạc bẽo . Một ước ao mình được trẻ lại, như không bao giờ có cuộc đời đã qua . Một nỗi vui sướng kì lạ, dào dạt ... khiến người chị ngây ngất, muón cười to một tiếng nhưng trong mí mắt lại đã mọng đầy nước chỉ định trào ra . Một sự hồi sinh thật lớn lao , kì diệu . Đào đâu ngờ hạnh phúc mà chị đã mất đi từ bảy tám năm nay ai ngờ lại tìm thâý ở một nơi mà chiến tranh đã xảy ra ác liệt nhất . Trên mảnh đất mà chỉ mới đay thôi còn ngợp lên một rừng cây chó đẻ, dây thép gai, mìn, vỏ đạn đại bác , nhừ nát vì những hó bom, những giao thong hoà , những đoạn xương người nằm rải rác ... giờ là cả một bãi trồng lạc trải mênh mông từ chân khu nhà ở ... cho mãi tới giáp rừng . Từ cái màu xanh lặng lẽ của bãi lạc, cái bóng lá loáng mướt của rặng chuối ... cho tới mảng khói bay qua ánh đèn trông rõ từng sợi xanh ... tất cả những hình ảnh bình dị đó đều mang một ý nghĩa nhân văn và triết lí sâu sắc ... Cuối cùng thì trên cái nơi còn đầy vết tích của chiến tranh , của chết chóc ấy, cái mầm sống thiêng liêng nhất đã hoài thai : bóng dáng nặng nề của những chị có mang ở khu gia đình . Trên bãi chiến trường ác liệt ấy, chỉ cách đây mấy tháng con người vẫn còn ngã xuống vì vấp phải bom mìn của kẻ thù còn sót lại, bây giờ đã nảy nở, không chỉ một mùa lạc đầu tiên mà còn cả những xao xuyến đầu tiên của niềm khát khao được sống cho đầy đủ, cho trọn vẹn cuộc sống của con người . Những người lính và người dân ấy đến với nhau trên Hồng Cúm, Điện Biên lịch sử ấy là để cùng nhau trồng nên một bãi lạc xanh, cũng là trồng cho mình một sắc xanh của sức sống, của ước mơ và của tình yêu hạnh phúc .

Và cũng từ chính mảnh đất ấy, Đào đã tìm thâý hạnh phúc cho chính mình . Một lá thư nói những lới gắn bó yêu thương, cho dù là của một người luống tuổi mới quen cũng có thể gây một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra, như mạch nước ngọt rỉ thẫm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn ... Đào sung sướng, một nỗi vui sướng kì lạ ... Trong đầu chị tràn ngập niềm vui, mơ ước và tin tưởng . Chị thấy mình gắn bó với mảnh đát này, với những người thân yêu dù không phải là anh em ruột thịt . Chính những nỗ lực hoà đồng của Đào, chính niềm say sưa lao động và tính cách không chịu thua kém ai của chị đã góp phần quan trọng vào cuộc hồi sinh kì diệu đó .

Trong tác phẩm, Nguyễn Khải đã xây dựng bên cạnh Đào nhân vật Huân muốn đem lại hạnh phúc cho người yêu mà không hề đòi hỏi được trả lại , và tâm hồn anh được cuộc sống tôi luyện trở nên trong suốt soi và là có thể thấy được tâm tư của người khác . Chính tính cách và sự bao dung của Huân kết hợp với lời lẽ trêu ngươi của Lâm là một trong những yếu tố không thể thiếu giúp Đào nhận ra ý nghĩa của cuộc sống, giúp chị xoá đi mặc cảm để hoà đồng với mọi người, và tìm thấy niềm hạnh phúc thực sự .

III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .

Có thể nói Mùa lạc là mùa vui, là mùa hồi sinh sự sống, mùa của những cuộc đổi đời . Tác phẩm là bài ca ca ngợi sức sống vĩnh hằng của con người, vượt qua những mặc cảm , những khó khăn của cuộc đời để đi tới bến bờ của tình yêu và hạnh phúc .

Nguồn: Sưu tầm

Phân tích vẻ đẹp của người Hà Nội qua nhân vật bà Hiền trong tác phẩm “Một người Hà Nội” (Nguyễn Khải)

Phân tích vẻ đẹp của người Hà Nội qua nhân vật bà Hiền trong tác phẩm “Một người Hà Nội” (Nguyễn Khải). (Phân tích nhân vật bà Hiền)
Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu. Tổ trưởng Tổ Ngữ văn THPT Bùi Thị Xuân. Biên Hòa. Đồng Nai.

Nguyễn Khải là nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm “Mùa lạc”,“Một chặng đường”,“Tầm nhìn xa”. Trước năm 1978, tác phẩm của Nguyễn Khải là cái nhìn tỉnh táo, sắc lạnh, luôn khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập cũ - mới, tốt - xấu, ta – địch. Từ năm 1978 trở về sau, tác phẩm của ông là cái nhìn trăn trở, chiêm nghiệm, cảm nhận cái hiện thực xô bồ, hối hả, đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc. Chuyển mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội. Nhà văn nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, quá khứ dân tộc, gia đình và sự tiếp nối thế hệ. Từ đó nhà văn khẳng định những giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay. Nhân vật bà Hiền trong tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận ấy của nhà văn.

Tác phẩm “Một người Hà Nội” tiêu biểu cho các tác phẩm của Nguyễn Khải sau giai đoạn 1978, vẻ đẹp của hình tượng của cô Hiền tiêu biểu cho nét đẹp và sức sống bất diệt của Hà thành. Qua nhân vật này, nhà văn Nguyễn Khải đã nói lên biết bao nhiêu điều có tính triết lý về sự thay đổi của thời gian, không gian nhưng vẻ đẹp của con người và vốn văn hóa cùng tính cách người Hà Nội mãi là giá trị tinh thần không thay đổi.

Nhân vật cô Hiền vốn xuất thân trong một gia đình giàu có, lương thiện, được dạy dỗ theo khuôn phép nhà quan, thời trẻ là một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, mở xalông văn chương để giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành. Cô là con người trí thức, hiểu biết rộng, là con người có “bộ mặt tư sản”, một cách sống rất tư sản : “Ở trong một tòa nhà rộng, tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung đền Ngọc Sơn”. Cái mặc cũng sang trọng quá: “Mùa đông ông mặc áo Ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo Măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm”. Cái ăn cũng không giống với số đông: “Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản, và từng người ngồi đúng chỗ quy định”. Đây là một lối sống nền nếp, lịch lãm, nhìn thì cứ ngỡ là tư sản nhưng thực chất cô Hiền không phải là tư sản bởi vì “Cô không bóc lột ai cả thì làm sao gọi là tư sản”. Cô làm ăn lương thiện với cửa hàng hoa giấy do chính tay tự làm và các con phụ giúp. Trong quan hệ với người làm, chủ và tớ “dựa vào nhau mà sống”. Tình nghĩa như người trong họ. Đây chính là vẻ đẹp của người lao động chân chính, có nhân có nghĩa.

Vẻ đẹp của cô Hiền được miêu tả trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử. Nhân vật lại có những biểu hiện ứng xử thể hiện cá tính đặc biệt nhất quán.

Khi hòa bình lập lại 1955, nhân vật “Tôi” từ kháng chiến trở về. “Hà Nội nhỏ hơn trước, vắng hơn trước”. Người thì tìm những vùng đất mới để làm ăn, sinh sôi. Riêng gia đình cô Hiền vẫn ở lại Hà Nội “Họ không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất khác”. Đây chính là sự gắn bó máu thịt, tình yêu của cô đối với Hà Nội. Hay sau kháng chiến chống Mỹ, mỗi bận nhân vật “tôi” từ Sài Gòn trở về Hà Nội, bà băn khoăn hỏi “Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá như thế nào, dân tình thế nào ?”. Cứ ngỡ đó chỉ là câu hỏi xã giao nhưng thực chất là chứa đựng tất cả những đau đáu, phấp phỏng và hi vọng về tương lai Hà Nội.

Nhân vật bà Hiền mang vẻ đẹp thanh lịch của người đất kinh kỳ. Đó là vẻ đẹp có trong bản thân nhân vật và được nhân vật không ngừng ý thức vun đắp. Đúng như câu ca xưa viết về con người Hà Nội:

“Chẳng thơm cũng thể hoa lài
Chẳng lịch cũng thể con người Tràng An”

Vẻ đẹp thanh lịch đó được thể hiện ở cách bà nuôi dạy con, uốn nắn cho chúng từ thói quen nhỏ nhất như cách cầm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn, cách đi đứng… Điều này thật khác với cách sinh hoạt của gia đình nhân vật xưng tôi “Cứ việc sục muôi, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát mắng con cái, nhồm nhoàm, hả hê, không phải theo một quy tắc nào cả”. Với bà Hiền đây không phải là chuyện sinh hoạt vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa ứng xử của người Hà Nội “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng”. Bà còn nói làm người Hà Nội thì phải “Biết lòng tự trọng, biết xấu hổ”. Đây không phải là biểu hiện của sự kỹ tính mà thể hiện nét tinh tế của một người có văn hóa.

Vẻ đẹp thanh lịch ấy còn thể hiện qua lối sống, qua những thói quen lịch lãm rất Hà Nội. Dường như sự lịch lãm ấy như dòng máu chảy trong huyết quản của bà qua bao thời gian. Thời thiếu nữ thì mở xalông văn chương, khi về già thì tĩnh tâm hưởng ngoạn cái đẹp, trang trọng giữa nhịp sống xô bồ, náo nhiệt với hình ảnh ngồi “Tỉa thủy tiên mỗi khi xuân về”, qua không khí căn phòng khách cổ kính, trang trọng với “Bình phong bằng gỗ chạm… Cái sạp gụ chân quỳ … Cái lư hương đời Hán”. Tất cả đều tinh tế và quý phái đậm hồn Hà Nội.

Sau chiến tranh, giữa đời thường là vẻ đẹp của một bà Hiền bình dân như bao con người khác “Áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, khăn len buộc đầu”. Nhưng điều đáng quý ở bà là quan niệm sống “Xã hội lúc nào cũng phải có một gia tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị”. Đây là một quan niệm đẹp về cái chuẩn thanh lịch. Khác với kiểu buông tuồng. Bữa tiệc chiêu đãi hai anh lính từ chiến trường miền Nam trở về đã giúp tác giả nói lên được vẻ đẹp ấy, đó là vẻ đẹp thanh lịch đúng chuẩn của con người Hà Nội. “Các ông mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cổ thắt caravat, các bà lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc, đeo dây đi lại uyển chuyển”. Vẻ đẹp này không chỉ là vẻ đẹp một thời mà là cả một đời, nó sẽ là vẻ đẹp trầm tích văn hóa cho một thời vàng son của lịch sử.

Ngoài vẻ đẹp thanh lịch quý phái, ở bà còn toát lên vẻ đẹp của bản lĩnh cá nhân, bản lĩnh sống của người Hà Nội, hiểu biết, nhận thức về cuộc sống hết sức thực tế. Là người phụ nữ nhưng bà mạnh mẽ, chủ động, tự tin, dám là chính mình. Trong hôn nhân bà chủ động lấy một ông giáo tiểu học hiền lành chăm chỉ. Bà nào chọn ai trong số đám văn nhân một thời vui chơi ? Sự kiện ấy làm cả Hà Nội “kinh ngạc”. Bà tính toán việc sinh con đẻ cái sao cho hợp lý, đảm bảo tương lai con cái. Nếu trong thời kỳ phong kiến vai trò của người phụ nữ bị xem nhẹ thì trong xã hội hôm nay, bà Hiền luôn đề cao người phụ nữ “Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao”. Bà cũng quyết định luôn cái kinh tế gia đình trong cái buổi giao thời đầy phức tạp. Ông chồng định mở tiệm máy in trong khi nhà nước đang có ý “không thích cá nhân làm giàu”. Bà nhanh chóng cản ngăn “Ông muốn làm ông chủ ở cái chế độ này à?”. Đây chính là cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt của con người biết nhìn xa trông rộng.

Bản lĩnh ở bà còn là tính thẳng thắn. Bà bày tỏ rất thẳng nhận xét của mình về cuộc sống với bao vấn đề. Theo bà “Chính phủ can thiệp quá nhiều vào việc của dân quá, nào là phải tập thể dục mỗi sáng, sinh hoạt văn nghệ mỗi tối”. Bà cũng nhận ra cái gì đó không phù hợp trong cách nghĩ “không thích cá nhân làm giàu”. Đây chính là thái độ nói thẳng nói thật của con người trung thực, có cái nhìn sâu sắc với thời cuộc.

Vẻ đẹp của bà Hiền còn là vẻ đẹp của một nhân cách sống cao thượng, vẻ đẹp của con người Hà Nội luôn coi lòng tự trọng là thước đo phẩm giá của mình. Lòng tự trọng ấy được thể hiện rõ nét nhất qua câu chuyện của bà về hai người con đi bộ đội. Khi anh Dũng xin đi bộ đội vào Nam chiến đấu, bà nói với nhân vật “tôi” : “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Đến lượt thằng con thứ hai lên đường bà cũng nói “Tao không khuyến khích cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm con đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Bà muốn sự công bằng như bao bà mẹ khác “Tao cũng muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì”. Là người mẹ ai mà không yêu con, không muốn con gặp gian nguy, bất trắc nhưng ở đây bà Hiền muốn dạy con đừng bao giờ sống đớn hèn, sống bám vào sự hi sinh của người khác là sống đáng hổ thẹn. Lòng tự trọng không cho phép con bà sống hèn nhát, ích kỷ. Ở đây bà còn hiện lên vẻ đẹp của người mẹ thời chiến có ý thức trách nhiệm với đất nước với dân tộc, biết sẻ chia trước đau thương mất mát của biết bao người mẹ khác. Lòng tự trọng giúp con người ta sống có trách nhiệm với cộng đồng. Ở bà Hiền, lòng tự trọng của cá nhân đã hòa vào lòng tự trọng của dân tộc. Đây là một cách ứng xử rất nhân bản.

Bà còn là con người luôn lưu giữ những niềm tin vào cuộc sống. Dù sống trong cơn lốc thị trường làm xói mòn đi nếp sống của người Hà Nội ngàn năm văn vật nhưng nó không làm lay chuyển được ý thức của con người luôn tin vào giá trị văn hóa bền vững của Hà Nội không thể mất đi. Bà quan niệm rằng “Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son, mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Đấy chính là niềm tin mãnh liệt vào những giá trị cổ truyền. Nhà văn còn đem hình ảnh cây si cổ thụ vào phần cuối của truyện với thái độ ngợi ca nhân vật với sự trân trọng những giá trị tâm linh. Cây si bật gốc đổ lên mái đền Ngọc Sơn nhưng nhờ vào tình yêu và niềm tin của con người mà nó đã sống lại. Sự sống lại cây cổ thụ là niềm lạc quan tin tưởng của tác giả vào sự phục hồi những giá trị tinh thần của Hà Nội. Những giá trị văn hóa bền vững sẽ không mất đi, nhà văn ao ước những giá trị ấy sẽ hóa thân vào hiện tại “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ lung linh chói sáng những ánh vàng”.

Làm nên thành công của tác phẩm nói chung và xây dựng nhân vật bà Hiền nói riêng là nhờ vào ngôn ngữ kể chuyện đặc sắc, có tính cá thể hóa. Nhà văn ít miêu tả, chủ yếu là kể, kể bằng quan sát, phân tích và bình luận sắc sảo giàu ý nghĩa. Giọng điệu trần thuật mang tính trải đời, tự nhiên, trĩu nặng suy tư, giàu chất khái quát, đa thanh, mang đậm yếu tố tự truyện qua “cái tôi”, (giọng kể tự tin xen lẫn hoài nghi, tự hào xen lẫn tự nhiên tăng tính chân thật, khách quan.)
Qua nhân vật bà Hiền, nhà văn khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa mang nét đẹp Hà Nội. Qua đó tác giả gửi gắm niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho hôm nay và cho cả mai sau. Từ đó chúng ta thêm yêu quý, tự hào về văn hoá, đất nuớc, con người Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và nối tiếp thế hệ. Nhân vật bà Hiền là “Một người Hà Nội” mãi mãi là hạt bụi vàng trong bể vàng trầm tích của văn hóa xứ sở.


Thầy PHAN DANH HIẾU

Avast! Antivirus Free 7.0.1407.0 + key sử dụng đến năm 2038

Sau bản Avast! Free Antivirus 6.0 tiếng Việt + Key[ Free đến 2038] mới được share tại đây hôm nay mình cập nhật bản tiếp theo

Avast! là trình an ninh hệ thống đã quá nổi tiếng. Sau khoảng nửa tháng thử nghiệm, hãng AVAST Software đã phát hành phiên bản chính thức của Avast! Free Antivirus 7 và các phiên bản trả phí khác của Avast!






Ngoài “bộ cánh” mới tuyệt đẹp, Avast! Free Antivirus 7 còn chứa đựng một số cải tiến đáng giá so với phiên bản 6 ra mắt cách đây gần một năm. Cụ thể như sau:

Bổ sung chế độ cài đặt tương thích với trình an ninh hệ thống cài sẵn.
“Chịu chơi” với Windows 8 Developer Preview vốn tích hợp sẵn Windows Defender có tính năng giống Microsoft Security Essentials.
Tích hợp dịch vụ đám mây FileRep giúp avast! 7 ra quyết định thông minh hơn bằng cách truy vấn cơ sở dữ liệu trên máy chủ nhà sản xuất và hỗ trợ cập nhật dữ liệu streaming nhằm kịp thời đối phó với các mối đe dọa (virus, spyware, trojan,...) mới xuất hiện.
Cho phép kết nối máy tính từ xa để trợ giúp người khác khắc phục sự cố Windows.
Hỗ trợ sao lưu và nhập các thiết lập từng cấu hình cho avast! 7.
Screen saver có hiệu ứng mới nhưng vẫn tự động quét virus, spyware trên ổ đĩa mỗi khi được kích hoạt.
Nâng cấp tính năng Sandbox và AutoSandbox (lướt web và chạy các ứng dụng đáng nghi trong môi trường an toàn), đồng thời bảo vệ các trình duyệt tốt hơn.

Avast! Antivirus Free 7.0.1407.0:

Pass: wWw.kenhdaihoc.com
Serial key đến năm 2038: W6754380R9978A0910-4TZ59467 


Xem thêm: http://kenhdaihoc.com/forum/showthread.php?t=6547

Hướng dẩn DNS subdomain về blogspot

Trích câu hỏi:

Vì mình làm mãi mà không được, nhờ hổ trợ bên mua domain thì họ kêu làm như vậy ko dc

Tình hình là mình mua 1 domain
Trong khi mình cũng dns main domain tại đây, mình muốn dns subdomain ( home.domain.com) về blogspot sao cho khi vào domain.blogspot.com thì nó chuyển sang home.domain.com ( như home.kenhdaihoc.com) thì phải làm sao?

Ai có cách nào để dns subdomain về blog thì hướng dẩn mình với nhé

demo: http://home.kenhdaihoc.com/
thank u all


Xem câu trả lời tại đâyhttp://kenhdaihoc.com/forum/threads/7399-Xin-huong-dan-DNS-subdomain-ve-blogspot.kdh