Jul 1, 2012

Kiến thức cơ bản về bài "Tây Tiến"



TÌM HIỂU BÀI TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG 

I/ Tìm hiểu chung:

1.Tác giả : Quang Dũng (1921-1988)

- Tên thật là Bùi Đình Diệm.

- Quê quán Phượng Trì, Đan Phương, Hà Tây.

- Cuộc đời: Từng gia nhập quân đội, làm thơ, viết văn, biên tập viên nhà xuất bản

- Con người : Là một nghệ sĩ đa tài “ Cầm, kì, thi, hoạ”, nhưng trước hết là một nhà thơ.

- Phong cách thơ: Hồn hậu, phóng khoáng, hào hoa, lãng mạn.

2. Bài thơ Tây Tiến:

a) Hoàn cảnh ra đời: 


* Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách thơ QD, in trong tập thơ “Mây đầu ô”(1986).

b) Bố cục bài thơ

+ Đoạn 1: Nhớ về những cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây.

+ Đoạn 2: Nhớ những kỉ niệm đẹp (Đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng)

+ Đoạn 3: Nhớ về những người đồng đội Tây Tiến.

+ Đoạn 4:Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.

II/ Đọc hiểu bài thơ:

1. Đoạn 1 : Nỗi nhớ về những chặng đường hành quân của bộ đội Tây Tiến và khung cảnh núi rừng miền Tây.

- Hai câu thơ mở đầu: 

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi...”

=> Hình ảnh “Sông Mã” như gợi thức nỗi nhớ ùa về trong tâm hồn nhà thơ.

=> Nhớ “Chơi vơi” ( 2 thanh bằng, nhẹ, lan toả, không hình không khối.
Hồn thơ Quang Dũng như đang bơi trong một biển nhớ bát ngát mênh mông, không bờ, không bến, tràn ngập, chơi vơi...Câu thơ như khơi dòng cho nguồn thác kí ức hiện về.


-    Bức tranh thiên nhiên miền Tây Vừa hùng vĩ, hiểm trở , hoang vu, nghiệt ngã vừa độc đáo thú vị:

+ Hùng vĩ, hiểm trở (Mở ra trong nhiều chiều không gian, thời gian)

> Nhiều tên đất lạ lẫm, gợi 1 vùng xa xôi, hẻo lánh: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu...

>Nhiều đèo dốc hiểm trở: 

“ Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi...”

=>    Sử dụng từ láy giàu chất tạo hình, gợi tả, gợi cảm, những câu thơ toàn thanh trắc ...=> Một bức tranh hoành tráng với tất cả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây

+ Nhiều vẻ hoang dại, bí ẩn, khắc nghiêt: Với mưa rừng, “Sương lấp đoàn quân mỏi”, “Thác gầm thét”, “Cọp trêu người.”

- Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trong đoạn thơ :

+ Đó là những chiến sĩ anh hùng bất khuất không quản ngại vượt qua bao chặng đường gian khổ , bao nhiêu hi sinh mất mát lớn lao:

“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời...”

=> Nổi bật chất bi tráng

+ Nhưng đó còn là những chàng trai hào hoa lãng mạn tinh nghịch với bao hăm hở khám phả, chinh phục.

- Hai câu kết đoạn thơ : “ Nhớ ôi...nếp xôi”=> Gợi không khí đầm ấm tình quân dân, như xua đi bao mệt mỏi của cuộc hành trình,tạo cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho đoạn sau 

2. Đoạn 2: Nhớ về những kỉ niệm đẹp - một vùng kí ức mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình

+ Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ: Những chàng trai Tây Tiến cùng những cô gái miền Tây như hoà quyên trong một không gian lãng mạn với 
    
> Đường nét uyển chuyển, man dại
> Không khí sôi nổi, tình tứ
> Âm thanh sắc màu hoà quyện ...

=>Cảnh vật và con người như hoà trong men say, tình tứ, ngây ngất, rạo rực.

+ Cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, mênh mang huyền ảo: “Người đi Châu Mộc...Hoa đong đưa”

> Không gian dòng sông trong một buổi chiều sương huyền ảo, thơ mộng vừa hoang dại như một bờ tiền sử-> Gợi sắc màu cổ tích huyền thoại.

> Nổi bật lên trên nền không gian ấy là dáng hình mềm mại uyển chuyển của cô gái miền Tây trên chiếc thuyền độc mộc.

=> Thiên nhiên hoang sơ nhưng vẫn rất gần gũi gợi bao cảm xúc sâu lắng.

3. Đoạn 3: Chân dung người lính Tây Tiến.

+ Chân dung : (Gương mặt chung của những người lính TT qua kí ức của QD)

- Ngoại hình : Toát lên vẻ oai phong, dữ dằn qua cái nhìn lãng mạn của QD 

- Tâm hồn: lãng mạn, mơ mộng, khát khao yêu đương 

+ Sự hi sinh mất mát: 

-Từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, độc hành...-> Gợi âm hưởng cổ kính, trang trọng.

- Hình ảnh về sự hi sinh lặp lại ở khổ1, nhưng được nâng lên tầm khái quát mang tầm vóc sử thi, thần thoại

- Sự thật bi thảm được làm mờ bằng những câu thơ gợi hình ảnh những tráng sĩ ngày xưa ra đi vì nghĩa lớn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng

=> Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, toát lên vẻ đẹp hào hùng và hào hoa , đậm chất bi trángcủa người lính TT

4. Đoạn kết: Lời thề sắt son

- “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy ...”=>thời điểm mơ mộng hào hùng một đi không trở lại.

- Câu kết ” Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện tinh thần “ một đi không trở lại” => Gợi không khí một thời đại ra đi kháng chiến “thà chết chớ lui” của tuổi trẻ VN trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc

III/ Chủ đề : 

Qua bài thơ, tác giả Quang Dũng :

- Ca ngợi vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, cũng là vẻ đẹp của những người lính trong kháng chiến chống Pháp. 

- Thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người miền Tây một thời gắn bó

( Sưu tầm )

Các vị la hán chùa Tây Phương



Các vị la hán chùa Tây Phương


Tác giả 

Nhà thơ Huy Cận sinh năm 1913 tại Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của “Thơ mới” với tập “Lửa Thiêng” (1940). Sau Cách mạng tháng Tám vừa làm cán bộ lãnh đạo Văn hoá – Văn nghệ, vừa làm thơ. Tác phẩm có: “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958), “Đất nở hoa” (1960), “Bài thơ cuộc đời” (1963), “Những năm sáu mươi” (1968), “Chiến trường gần đến chiến trường xa” (1973),…
Thơ Huy Cận trước Cách mạng chất chứa nỗi vạn cổ sầu, sau năm 1945 dào dạt tình đời và niềm vui bát ngát. Thơ ông giàu nhạc điệu, hàm súc cổ điển và có màu sắc suy tưởng, triết lý.

Xuất xứ 
1. Bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” được Huy Cận viết vào năm 1960, được in trong tập “Bài thơ cuộc đời” (1963).
2. Chùa Tây Phương là một chùa cổ đẹp nổi tiếng ở huyện Thạch Thất thuộc tỉnh Hà Tây. Có thuyết cho rằng chùa được xây dựng vào cuối thế kỷ 18. (Sách Văn 12). Lại có thuyết khẳng định: Chùa Tây Phương được xây dựng khá lâu đời. Năm 1554, chùa được trùng tu. Năm 1660, chúa Trịnh Tạc đến thăm và cho sửa sang lại, chùa càng đẹp hơn, quy mô hơn. Đến đời Tây Sơn, chùa lại được trùng tu một lần nữa và đúc chuông “Tây Phương cổ tự” (theo Nguyễn Phi Hoành).

3.
 Chùa Tây Phương có rất nhiều tượng cổ. Tượng Rahula và tượng Tuyết Sơn là 2 pho tượng to nhất và đẹp nhất ở chùa này. Ngoài ra còn có nhóm tượng 18 vị La Hán là những vị tu hành đắc đạo, đạt đến sự yên tĩnh vĩnh hằng – cõi Niết Bàn. Có sách Phật khác gọi là tượng Bồ Tát.

Cảm hứng chủ đạo 
Ngắm nhìn các pho tượng La Hán chùa Tây Phương – công trình mĩ thuật tuyệt diệu Huy Cận lòng vấn vương về nỗi đau đời khát vọng cứu đời của người xưa. Trong niềm vui đổi đời, nhà thơ vô cùng cảm thông với ông cha những thế kỷ trước, càng tin tưởng tự hào về chế độ mới sẽ mang lại hạnh phúc cho toàn dân.


Bố cục

1. Tám khổ thơ đầu: đặc tả và cảm nhận về các pho tượng La Hán.
2. Năm khổ thơ tiếp theo: nỗi đau đời và bế tắc của người xưa. Sự cảm thông của nhà thơ.
3.
 Hai khổ thơ cuối: niềm tin vui và tự hào của tác giả về chế độ mới…


Những vần thơ trong trí nhớ

Cảm hứng nhân đạo bao trùm toàn bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương”. Những ý tưởng sâu sắc, những hình tượng độc đáo, ngôn ngữ thơ đặc sắc về mặt tạo hình – làm nên giá trị nhân văn bài thơ. Tuy vậy, người đọc vì nhiều lý do riêng, rất thích 8 khổ thơ đầu.

1. Đến thăm chùa Tây Phương, lúc trở về nhà thơ vấn vương vì sao xứ Phật vốn từ bi “mà sao ai nấy mặt đau thương”? Huy Cận chỉ đặc tả 3 pho tượng trong nhóm tượng La Hán để trả lời cho câu hỏi ấy.
Pho tượng La Hán thứ nhất là hiện thân của sự tích diệt đến khô gầy. Chân với tay chỉ còn lại “xương trần”. Tấm thân gầy như đã bị “thiêu đốt”. Mắt sâu thành “vòm” với cái nhìn “trầm ngêm đau khổ?”. Dáng ngồi tĩnh tọa bất động qua mấy ngàn năm:
“Đây vị xương trần chân với tay
Có chí thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay”.
Pho tượng La Hán thứ hai như chứa đựng biết bao vật vã, dằn vặt, đau khổ. Mắt thì “giương”, mày thì “nhíu xệch”. Trán như đang “nổi sóng biển luân hồi” vô cùng vô tận. Môi cong lên “chua chát”. Tâm hồn khô héo. Bàn tay “gân vặn”, mạch máu thì “sôi” lên. Các chi tiết nghệ thuật, những nét khắc, nét chạm bằng ngôn ngữ đã gợi tả vẻ dữ dội đầy ấn tượng: về một chân tu khổ hạnh:
“Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi”
Pho tượng La Hán thứ ba rất dị hình. Ngồi trong tư thế “chân tay co xếp lại” chẳng khác nào chiếc thai non “tròn xoe”. Đôi tai rất kì dị “rộng dài ngang gối”. Vị tu hành này như suốt đời “nghe đủ chuyện buồn” của chúng sinh:
“Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn”
Các khổ thơ 5, 6, 7, 8 tả khái quát nhóm tượng La Hán. Đời nhân loại đầy “giông bão” như một vực thẳm “bóng tối đùn ra trận gió đen”. Tượng vẫn ngồi lặng yên trong dòng chảy thời gian. Các vị tu hành xa xưa như đang “vật vã” đi tìm phép nhiệm màu để giải thoát chúng sinh? Khổ thơ thứ 7 nói thật sâu sự bế tắc của Phật, bởi lẽ “Đời là bể khổ” (?)
“Mặt cúi, mặt nghiêng mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”
“Không lời đáp” bởi lẽ chúng nhân trong “đêm trường dạ” của xã hội phong kiến vẫn quằn quại đau thương cực khổ.
Tóm lại, phần đầu bài thơ rất đặc sắc. Nghệ thuật tả các pho tượng rất biến hoá, nét vẽ, nét tạc nào cũng sống động và có hồn. Tượng La Hán là những tĩnh vật, nhưng tượng nào cũng được tả trong những tư thế và cử chỉ khác nhau, với một cõi tâm linh sâu thẳm. Các vị La Hán như đi tìm phép nhiệm màu cứu nhân độ thế, đang vật vã trong bế tắc. Nhà thơ không chỉ phản ánh một xã hội quằn quại đau khổ trong những biến động và bế tắc không tìm được lối ra mà còn thể hiện một tinh thần nhân đạo đáng quý, trân trọng và cảm thông với người xưa.

2. Phần thứ hai là tiếng nói cảm thông vô cũng chân thành và cảm động. Đây là một khổ thơ hay rất đáng nhớ thể hiện cái “tâm” của Huy Cận:
“Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can, vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu!”

3. Phần thứ ba, nói về sự đổi đời của nhân dân ta trong chế độ mới tươi đẹp. Hai câu cuối giàu ý vị và chất thơ:
“Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân”
Bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” là một bài thơ độc đáo về đề tài, đặc sắc ở ngôn ngữ miêu tả giàu hình tượng. Sự tưởng tượng kỳ diệu và cái tâm nhân hậu của Huy Cận đã tạo nên giá trị nhân bản của bài thơ, đem đến cho người đọc nhiều thú vị và suy tưởng về lẽ đời.

ST

Nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm


Nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Thơ ca giai đoạn 1945-1975 có nhiều sáng tác đặc sắc về đề tài đất nước, ví dụ : Nguyễn Đình Thi (Đất nước), Xuân Diệu ( Mũi Cà Mau), Chế Lan Viên (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?), Trần Vàng Sao (Bài thơ của một người yêu nước mình)...

Các sáng tác kể trên đều có sức sống lâu bền qua nhiều thế hệ những người yêu thơ bởi những đóng góp riêng độc đáo. Đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng có một đóng góp riêng đặc sắc. Đó là ở cái nhìn mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện : lịch sử - địa lí - văn hoá...

1. Khác với nhiều tác giả đi trước và một số cây bút cùng thế hệ, thường tự tạo ra một khoảng cách để chiêm ngưỡng hình ảnh của Tổ quốc, với thái độ trân trọng đặc biệt, nên hay dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, mang tính biểu tượng để thể hiện cảm nhận của mình về đất nước, phần mở đầu đoạn thơ trích được Nguyễn Khoa Điềm diễn đạt tự nhiên và bình dị :
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước ở trong cái " ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc".
Đất nước thực ra rất thân thuộc, gần gũi. Có thể cảm nhận được về đất nước qua những gì hết sức đơn sơ : câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu của bà, ngôi nhà mình ở, hạt gạo ta ăn...

2. Giọng thơ suy tư thường vẫn hay đặt ra các câu hỏi và tự trả lời. Đoạn thơ mở đầu cũng có thể được coi là những câu trả lời cho câu hỏi : Đất nước có từ bao giờ? Và lịch sử lâu đời của đất nước ta được cắt nghĩa không bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi nhớ đến các truyền thuyết xa xưa : truyện Trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng, nền văn minh sông Hồng cùng những phong tục, tập quán riêng biệt có từ lâu đời...đó chính là đất nước được cảm nhận ở chiều sâu của văn hoá và lịch sử.
Tiếp theo, trong mạch thơ chính luận - trữ tình, là câu trả lời cho câu hỏi : đất nước là gì? là sự cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất, hài hoà các phương diện địa lí và lịch sử, không gian và thời gian. Xuất thân từ một thế hệ trí thức trẻ mà những tri thức văn hoá được trang bị còn tươi rói, tác giả chia tách ý niệm đất nước thành hai yếu tố đất và nước để cảm nhận và suy tư sâu hơn không dừng lại ở bình diện khái niệm mà ở một bình diện khác sâu hơn, thể hiện một cái nhìn về hình tượng đất nước thiêng liêng bằng quan niệm mới của tuổi trẻ nên vừa mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo : Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm / Đất Nước là nơi hai ta hò hẹn / Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm... 
Trong mắt của người trẻ tuổi, đất nước này là cái cõi đầy thơ mộng với bao kỉ niệm dịu ngọt của tình yêu. Đất nước, cái không gian tuyệt diệu của tình yêu không chỉ của thế hệ hiện tại mà còn là của bao thế hệ đã đi qua hướng mãi suy tư của ta tới cội nguồn, tới : Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại. Dặn dò con cháu chuyện mai sau... Cái không gian của tình yêu ấy, theo dòng suy cảm của tác giả mà mở rộng các chiều kích, rồi hướng tới một cái nhìn toàn vẹn và nhiều chiều về đất nước trong chiều dài của lịch sử và chiều rộng của địa lí, chiều sâu của văn hoá và phong tục...Từ đó, mạch thơ hướng vào những suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ mình, một thế hệ tự ý thức về bổn phận của chính mình với đất nước :

Em ơi, Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...

Đây là những lời tâm sự nhiều hơn là kêu gọi, giáo huấn. Vì thế, sức truyền cảm của ý thơ vẫn rất mạnh.

3. Ở phần sau của đoạn trích, tác giả nhấn mạnh quan niệm Đất nước của nhân dân. Thực ra, đây cũng là tư tưởng cốt lõi của cả đoạn trích, nhưng ở phần sau thì được triển khai trên hai hướng vừa khơi sâu vừa phát hiện nhiều ý nghĩa mới. Những phát hiện thú vị và độc đáo của tác giả về đất nước trên các phương diện : địa lí, văn hoá, phong tục...muôn vàn những vẻ đẹp, theo tác giả, đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân, của những người bình thường, vô danh. Đây là lí do vì sao khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm tên các triều đại cùng bao nhân vật anh hùng trong sử sách mà nhấn mạnh đến lớp lớp những người vô danh :

Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước...

Tóm lại, đoạn thơ là cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện : lịch sử - địa lí - văn hoá...
Với một cái nhìn giàu suy tư, tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra được tô đậm là cảm hứng chủ đạo. Tất cả được biểu đạt bằng một giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng, thiết tha. Nghệ thuật sử dụng nhuần nhị và sáng tạo các chất liệu văn hoá và văn học dân gian đem vào câu thơ hiện đại tăng thêm sức hấp dẫn của đoạn thơ. 


(hocmai)

Kiến thức cơ bản về đoạn trích "Đất nước" (Nguyễn Khoa Điềm)



ĐẤT NƯỚC
( Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm )



Mục tiêu bài học 
- Thấy thêm một cái nhìn mới mẻ về đất nước qua cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa ĐiềmĐất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra đất nước.- Năm được một số nét đặc sắc về nghệ thuật: giọng thơ trữ tình- chính luận, sự vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố của văn hoá và văn học dân gianlàm sáng tỏ thêm tư tưởng “Đất nước của Nhân Dân” .

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả : 


- Sinh ra trong một gia đình trí thức, giàu truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng. 

- Học tập và trưởng thành trên miền Bắc, tham gia chiến đấu và hoạt động văn nghệ ở miền Nam. 

- Phong cách sáng tác : 

+ Giàu chất suy tư , xúc cảm dồn nén . 

+ Giọng thơ trữ tình chính luận . 

2. Đoạn trích : 

- Vị trí : Trích chương V của trường ca . 
- Hoàn cảnh sáng tác : Hoàn thành ở chiến khu Trị -Thiên 1971 . 
-Bố cục văn bản : Hai phần 

Phần I : 42 câu đầu : Đất nước được cảm nhận từ nhiều phương diện lịch sử văn hoá dân tộc, chiều sâu của không gian, chiều dài của thời gian. 

Phần II: 47 câu cuối : Tư tưởng cốt lõi, cảm nhận về đất nước : Đất nước của Nhân dân . 

II. Đọc hiểu văn bản :

1. Đất nước được cảm nhận trên nhiều bình diện:


* Cảm nhận chung về đất nước: (Đoạn mở đầu) 

=> Đất nước hiện ra trong cảm nhận qua những gì thân thương, gần gũi, đơn sơ:

- Đó là những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể.

- Là miếng trầu của bà, là hạt gao một nắng hai sương, là ngôi nhà ta ở...

=> Giọng thơ nhẹ nhàng, âm hưởng đầy quyến rũ , sử dụng chất liệu VHDG..., tác giả đưa ta về với cội nguồn của đất nước : Một đất nước vừa cụ thể vừa huyền ảo và đã có từ rất lâu đời. 

* Cảm nhận về đất nước ở phương diện lịch sử - văn hoá :
- Đất nước được cảm nhận gắn liền với nền văn hoá lâu đời của dân tộc:

+ Câu chuyện cổ tích, ca dao. 

+ Phong tục của người Việt: ăn trầu, bới tóc. 

- Đất nước lớn lên đau thương vất vả cùng với cuộc trường chinh không nghỉ ngơi của con người : 

+ Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, gắn với hình ảnh cây tre- biểu tượng cho sức sống bất diệt của dân tộc. 

+ Gắn với nền văn minh lúa nước, lao động vất vả. 

- Đất nước gắn liền với những con người sống ân tình thuỷ chung. 

=> Đất nước không trừu tượng mà ở ngay trong cuộc sống của mỗi chúng ta. 

* Cảm nhận đất nước ở phương diện chiều rộng của không gian: 

- Là không gian hò hẹn của tình yêu (Lối chiết tự đầy ý nhị vừa mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo , tác giả đã định nghĩa đất nước thật độc đáo)

- ĐN là nơi chốn sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ( nơi dân mình đoàn tụ ) 

=>Là sự thống nhất giữa cá nhân với cộng đồng.
- Đất nước còn là không gian rộng lớn tráng lệ hùng vĩ của núi cao, biển cả. 

=> ĐN là những gì gần gũi thân quen gắn bó với cuộc sống mỗi người lại vừa mênh mông rộng lớn.

* Cảm nhận về ĐN ở phương diện chiều dài thời gian : ĐN được cảm nhận từ quá khứ với huyền thoại “ Lạc Long Quân và Âu Cơ” cho đến hiện tại với những con người không bao giờ quên nguồn cội dân tộc, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ . 

* Suy ngẫm của tác giả về trách nhiệm của thế hệ mình với ĐN : phải biết gắn bó, san sẻ và hi sinh vì đất nước.

=> ĐN hiện lên vừa thiêng liêng sâu xa , lớn lao vừa gần gũi thân thiết với sự sống mỗi người.

2.Tư tưởng cốt lõi : ĐN của nhân dân 

- Tác giả tiếp tục với những cảm nhận về đất nước trên nhiều bình diện: 
Chiều dài lịch sử, chiều rộng địa lí, chiều sâu văn hoá lịch sử

+ Một Đất nước với nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ,gắn với số phận, tính cách ,phẩm chất, tâm hồn nhân dân ( Hòn Trống Mái, Núi Vọng phu, Núi Bút, Non Nghiên, Vjịnh Hạ Long...)

=> ĐN hiện lên vừa gần gũi vừa thiêng liêng. 

+ Một Đất nước giàu truyền thống : 

. Anh hùng bất khuất : Có những anh hùng không ai nhớ mặt đặt tên. Họ hi sinh thầm lặng cho Đất nước

. Đoàn kết trong đấu tranh, lao động sinh tồn...

+ Một Đất nước của ca dao, thần thoại , của những vẻ đẹp tâm hồn nhân hậu thuần phác

=>Tg chọn 3 dẫn chứng để nói về truyền thống của nhân dân : 

+ Say đắm, lạc quan trong tình yêu ( Yêu em từ thuở trong nôi . 

+ Biết quý trọng tình nghĩa ( Biết quý công...) 

+ Quyết liệt trong căm thù và chiến đấu ( biết trồng tre ...) 

=> Sự phát hiện thú vị và độc đáo của tg về ĐN trên các phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá với nhiều ý nghĩa mới : Muôn vàn vẻ đẹp của ĐN đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân , của những con người vô danh , bình dị . ĐN từ nhân dân mà ra, do nhân dân mà có và nhờ nhân dan mà tồn tại

3. Nghệ thuật : 

- Thể thơ tự do phóng túng . 

- Sử dụng phong phú, đa dạng và đầy sáng tao chất liệu văn hoá dân gian. 

- Giọng thơ trữ tình - chính trị . 

4. Chủ đề : Văn bản đã thể hiện một cái nhìn mới mẽ về đất nước : ĐN là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân . Nhân dân là người làm ra đất nước

(Sưu tầm)