Jul 1, 2012

Đọc hiểu đoạn trích Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm)



TÌM HIỂU ĐOẠN TRÍCH ĐẤT NƯỚC CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM


1.Về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và xuất xứ đoạn trích « Đất Nước ».


-
Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943. Nhà thơ xứ Huế. Tốt nghiệp Đại học Văn Sư phạm Hà Nội. Thời chống Mĩ sống và chiến đấu tại chiến trường Trị-Thiên. Nay là Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin. 

- Tác phẩm thơ: “Đất ngoại ô”, “Mặt đường khát vọng”,…
 

- Thơ của 
Nguyễn Khoa Điềm đậm đà, bình dị, hồn nhiên, giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người thanh niên trí thức tham gia tích cực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. 

- Xuất xứ : Trường ca “Mặt đường khát vọng” được 
Nguyễn Khoa Điềm viết tại chiến khu Trị-Thiên hoàn thành vào cuối năm 1971. Được xuất bản vào năm 1974. 

- Đoạn trích “
 Đất nước” gồm 110 câu thơ tự do, là chương 5 của trường ca “Mặt đường khát vọng” (Sách Văn 12 trích 89 câu thơ phần đầu chương 5 ).

2.Chủ đề đoạn trích « Đất Nước »
 

Bài thơ của 
Nguyễn Khoa Điềm nói về cội nguồn đất nước theo chiều dài lịch sử đằng đẵng và không gian địa lý mênh mông. Hình tượng Núi Sông gắn liền với tâm hồn và chí khí của Nhân dân, những con người làm ra Đất nước. Đất nước trường tồn hứa hẹn một ngày mai đẹp tươi và hát ca. 

3.Nội dung cơ bản

3.1. Cảm nhận chung về đất nước.

- Cảm nhận về đất nước bằng những gì gần gũi thân thiết, bình dị trong cuộc sống của con người.
 

+ : “Đất nước có..............” qua sự tích:
 
Trầu cau: nói lên tình nghĩa vợ chồng gắn bó, thủy chung, ý thức dân tộc.
Thánh Gióng: tinh thần bất khuất chống xâm lược của dân tộc ta từ thời dựng nước.

+ Đất nước được hình thành từ những thuần phong mĩ tục: tóc mẹ thì bới sau đầu, đó là nét đẹp văn hoá cội nguồn của dân tộc dù trải qua 1000 năm Bắc thuộc.
 

Đất nước được hình thành từ những lối sống giàu tình nặng nghĩa: Cha mẹ thương nhau.....từ câu ca dao: Tay bưng chén muối đĩa gừng.

+ Đất nước được hình thành từ những vẻ đẹp văn hoá vật chất của nền văn minh nông nghiệp lúa nước: cái cột, cái kèo... và cuộc sống lao động nông nghiệp vất vả: 

Hạt gạo một nắng hai sương xay ,giã ,dần ,sàng.
Đất nước có từ ngày đó

- Đất nước được cảm nhận từ phương diện địa lí, lịch sử.
 

+ Đất nước là không gian rừng biển, sông núi, giang sơn, yêu qúy qua các làn điệu dân ca trữ tình:
 
Đất là nơi chim về...
Nước là nơi rồng ở

+ ĐN là không gian gần gũi gắn bó với mỗi chúng ta:
 
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Và cũng là nơi gắn bó với những kỉ niệm thơ mộng tuyệt đẹp “ĐN là nơi ta hò hẹn....thầm”

+ ĐN gắn với truyền thuyết con rồng cháu tiên:
 
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

+ ĐN là nơi k/gian sinh tồn của cả dân tộc qua bao thế hệ, từ quá khứ đến hiện tại, tương lai. không quên cội nguồn
 
“Những ai đã khuất.......con cháu”

- ĐN hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người.
 

+ Mỗi chúng ta đều có một phần ĐN từ thể xác đến tâm hồn. Ý thơ gợi chúng ta về trách nhiệm về ĐN về sự đoàn kết giữa các dân tộc tạo nên sự vẹn toàn cho đất nước. Cho nên, cần đem xương máu của mình để xây dựng đất nước: 


“Em ơi Đất nước là máu xương của mình
 
Phải biết gắn bó và san sẻ.
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời”

=>ĐN được tác giả cảm nhận từ chiều dài của thời gian và lịch sử, từ chiều rộng không gian và địa lí, bề dày văn hoá và phong tục lối sống.
 

Tóm lại, 42 câu thơ trong phần I nói về nguồn gốc của Đất nước và sự gắn bó, san sẻ đối với Đất nước. Ý tưởng sâu sắc ấy được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân gian, một giọng điệu thủ thỉ tâm tình vô cùng thấm thía, xúc động. Chất trữ tình hòa quyện với tính chính luận.
 

3.2.Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
 

-Tất cả mọi hình ảnh tồn tại trên đất nước đều gắn liền với nhân dân.
 

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
 
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…”

Những cảnh quan: hòn Vọng Phu, Trống Mái chỉ trở thành thắng cảnh khi gắn liền với con người vì không có sự chờ đợi của người vợ thì không có núi Vọng Phu, không có truyền thuyết Hùng Vương thì không có sự cảm nhận hùng vĩ quanh đền hùng: 


“ Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
 
Chẳng mang một dáng hình ,một ao ước,một lối sống ông cha
Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những tâm hồn đã hoá núi sông ta”

- Nhân dân gìn giữ và bảo vệ đất nước:
 

+Nhà thơ không điểm lại những triều đại anh hùng mà nhấn mạnh đến những con người vô danh, bình dị nhưng chính họ là người đã “giữ và truyền” hạt lúa, đã “truyền lửa”, “truyền giọng điệu”, “gánh tên làng tên xã”…, “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Chính Nhân dân đã làm nên Đất nước, để Đất nước là của Nhân dân
 

+ Họ là những con người anh hùng :
 
.“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng”

. “Trong bốn nghìn năm lớp người giống ta lứa tuổi
 
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”.

Đất nước này là của nhân dân.

+ Vần thơ hàm chứa ý tưởng đẹp, một lối diễn đạt ý vị ngọt ngào:
 

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
 
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất nước này là Đất nước Nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”

+ Đất nước mang sức sống mãnh liệt, tiềm tàng vì Nhân dân đã biết yêu và biết ghét, bền chí và dẻo dai, biết “quý công cầm vàng”, “biết trồng tre đợi ngày thành gậy”, biết trả thù cho nước, rửa hận cho giống nòi mà “không sợ dài lâu”.
 

+Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:
 

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
 
Mà khi về Đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

(Sưu tầm)

Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm


ĐẤT NƯỚC

Nguyễn Khoa Điềm

I . ĐẶT VẤN ĐỀ .

Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người . Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân . Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước . Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước .

II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .


Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước .
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa 
ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu abây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết 
trồng tre mà đánh giặc .
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người . Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược . Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.

Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giầu truyền thống văn hóa , giầu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình . Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn . Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn . Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia . Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào : Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau .

Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa :
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó .
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản gị biết bao . Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân” .
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc 
khăn trong nỗi nhớ thầm .
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương . Ý nịêm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó . Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh .

Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền . Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn . Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu . Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta . Chiếc khăn - biểu tượng của nỗi nhớ thương - đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng : “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất …”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.

Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương . Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả . Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về . Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn .

Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ . Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ , về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ . Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình .
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở :
Những ai đã khuất 
Những ai bây giờ 
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng , tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa - phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc .

Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi , nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ .
Và cụ thể hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước . Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời .
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng : Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước .

Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước . Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên … không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân , sự hóa thân của những con người không tên tuổi : “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái” , “Người học trò thắng cảnh” . Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân . Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi , dòng sông . Từ những hình ảnh, những cảnh vật , những hiện tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu sắc :
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, 
một lối sống ông cha
Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu
ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta .
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước . Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường, bình dị . Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đó .
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước 
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao . Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởn cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo :
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đát nước của 
ca dao thần thoại 
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước . Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc : Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm .
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới . Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui …

III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ 

Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước . Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng . Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại .
Nguồn: Sưu tầm

Đất Nước qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm



Đất Nước qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...
Trong những ngày tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Trị Thiên, Nguyễn Khoa Điềm đã có những xúc cảm, suy tư nồng thắm sâu sắc về đất nước về nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước. Từ đó, nhà thơ đi đến sự nhận thức đúng đắn về vai trò trách nhiệm của thế hệ thanh niên trí thức - những người chủ chân chính của đất nước, phải tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của nhân dân để giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi xa hơn đến những tháng ngày mơ mộng. Trường ca Mặt đường khát vọng hình thành trong bối cảnh ấy, và có thể xem chương Đất Nước là nơi dồn nén cảm xúc và kết tinh những suy tư có tính chân lý của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước và Nhân Dân, được chuyển tải qua những lời nghệ thuật dung dị, lại có khả năng truyền cảm sâu sắc đến bao thế hệ độc giả.
Mở đầu cho dòng suy tưởng, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức về sự tồn tại lâu dài của đất nước trong suốt "thời gian đằng đẵng" bốn ngàn năm văn hiến. Thi nhân khẳng định:

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi..
Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa“... mẹ thường hay kể.
Âm hưởng của lời thơ lắng đọng như giọng kể chuyện tâm tình thủ thỉ giữa những kẻ thân thương, gợi ra ở người nghe dòng liên tưởng trôi về một thời quá khứ xa xăm, trong ấy trầm tích bao huyền sử tự hào về cuộc sống chiến đấu của cha ông. Nhà thơ đã sử dụng thi pháp tuyệt vời ở câu thơ bỏ ngỏ. Sau trạng ngữ chỉ thời gian "Ngày xửa ngày xưa"..., lời kể của mẹ được chuyển sang cho người đọc tự liên tưởng hình dung về bao hình tượng đẹp một thời làm xôn xao tuổi mộng vàng như Thánh Gióng, Trần Quốc Toản, Mai An Tiêm... Cả một nền văn hoá, văn học dân gian với bao thần thoại, truyền thuyết phong phú làm sao có thể gói trọn trong mấy vần thơ. Thi nhân như trao cho người đọc chiếc chìa khoá để tự mình khám phá cái kho tàng văn hoá phong phú tổ tiên trao lại. Lần về mảnh vườn cổ tích ấy, những ai có lòng chắc chắn sẽ tự mình chắt chiu được những giọt mật mà bồi dưỡng tâm hồn thiện chân, tìm đến một lẽ sống đẹp.Truy tìm về cội nguồn Đất Nước, khó ai có thể xác định minh bạch cái ngày tháng khởi thuỷ của nó, cho dù là nhà khảo cổ hay sử gia. Nguyễn Khoa Điềm lại xác định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam:

Đất Nước
 bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn 
Đất Nước lớn lên khi mình biết trồng tre mà đánh giặc
Không ai lấy tiêu chuẩn đo lường của nhà khoa học để bắt bẻ thi nhân. Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị. Bởi lẽ, thẩm thấu vào các tế bào mỏng manh ấy, là những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống đẹp của con người Việt Nam.Trong tục cúng lễ, miếng trầu quả cau là biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến hồn thiêng những bậc đã khuất, là nhịp cầu giao cảm với tiền nhân. Miếng trầu gợi ra huyền sử tình yêu, nói lên mối quan hệ vợ chồng chung thuỷ, nghĩa anh em Tân - Lang trọn vẹn. Và có lẽ từ đó, miếng trầu trở thành vật biểu trưng cho tình yêu và hôn nhân. Miếng trầu giúp dẫn mối tìm nhau, để cho con người phải lứa nên duyên, là nhân tố tạo nên bao đôi uyên ương chắp cánh chung cành. Để rồi khi họ về già, thong thả nhai miếng trầu, nhớ buổi thanh xuân tình nồng nghĩa đượm, mà đột nhiên nở nụ cười mãn nguyện chuyện tình xưa.

Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước từ buổi "dân mình biết trồng tre mà đánh giặc". Đất nước Việt có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp tạo điều kiện cho cây tre sinh sôi phát triển khắp mọi miền của Tổ Quốc, đem lại một màu xanh bát ngát cho quê hương. Nguyễn Duy cũng từng trăn trở về những phẩm chất kì lạ của cây tre Việt :

Tre xanh xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?

Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu?

Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất đôi khi ngỡ là đối lập trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình như cây tre mềm mại để hoá thành những vật dụng xinh xắn trong cuộc sống con người: nhỏ nhắn như cây tăm, đôi đũa; êm ái như chiếc nôi ru ta lớn lên vào đời; yên ổn vững chắc như "cái kèo cái cột thành tên", làm nên ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống như Nguyễn Duy so sánh:

Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.
Đến khi cả dân tộc lên đường ra trận, quyết giành lại độc lập tự do, thì tre cũng đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc Việt , thậm chí "một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi "nòi tre đâu chịu mọc cong, chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".

Từ những giá trị vật chất bình dị thân quen, Nguyễn Khoa Điềm gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Đó không ai khác là những người mẹ, người cha một đời kính trọng thuỷ chung, "thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Tình cảm chân thành ấy không phải là lớp son phấn với "sắc màu lộng lẫy, sáo ngữ ồn ào", mà là những nét duyên như búi tóc mẹ bới sau đầu gọn gàng ý nhị, đủ để làm cho con tim xao xuyến khi gần nhau, và khi xa thì không bao giờ nguôi ngoai nhung nhớ, để rồi họ bật lên những câu ca dao nghe như muối xát tâm can:

Thiếp nhớ chàng tấm phên hư nuộc lạt đứt
Chàng nhớ thiếp khi đắng nước nghẹn cơm
Ba trăng là mấy mươi hôm
Mai nam vắng trước chiều nồm quạnh sau.
Nguyễn Khoa Điềm lại có một cách nhìn thấu triệt theo thời gian hao phí lao động để kết tinh một hạt gạo trắng trong. Nó phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng.Thắm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Nhiều người chỉ biết hưởng thụ hững hờ mà quên đi lời dạy "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", nên Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo nhắc nhở chúng ta nhai hạt cơm dẻo nên nhớ đến công lao của người làm ra nó, để không làm họ buồn lòng phải cất lời nhắc nhở:

Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Nguyễn Khoa Điềm thật tài tình, khi ông cụ thể hoá khái niệm đất nước trừu tượng lớn lao cả về chiều "thời gian đằng đẵng", lẫn "không gian mênh mông" vào trong những hình ảnh nhỏ bé như hạt gạo, nhưng lấp lánh bao tầng ý nghĩa sâu sắc, có giá trị biểu trưng những nét bản chất và tinh hoa của dân tộc, của Đất Nước Việt Nam. Đề cập đến hạt gạo là nói đến nền kinh tế nông nghiệp đặc trưng, được quy định bởi điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi của nước Việt. Nhân dân lao động gắn mình trong môi trường đất đai từ đời này qua đời khác, sẽ định hình nên những nét cốt cách của con người Việt . Họ yêu quý đất đến mức xem "Tấc đất tấc vàng". Và vì vậy, họ sẵn sàng hiến thân vì non sông đất nước như Chế Lan Viên từng cảm xúc:

Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông
( Sao chiến thắng )

Tính triết lý trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm vừa sâu sắc vừa đầy sức thuyết phục. Chỉ vài dòng thơ ngắn và tinh tế, thi nhân đã đi đến một kết luận có tính khẳng định "Đất Nước có từ ngày đó ..." và do nhân dân lao động tạo dựng nên, để cho chúng ta hôm nay được thụ hưởng hạnh phúc một cách cụ thể thiết thực, chứ không hề là một tình cảm thuần tuý mơ hồ đã thuộc về quá khứ. Nguyễn Khoa Điềm giải thích một cách đơn giản:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước
 là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Nhà thơ nhắc đến ngôi trường cái bến, một toạ độ lưu dấu kỷ niệm tình yêu. Các địa danh ngỡ là rời rạc riêng tư, nhưng thực chất đó là linh hồn của Đất Nước, là dấu ấn tình cảm sâu sắc của con người Việt . Ngôi trường là nơi cung cấp hành trang tri thức cho mỗi chúng ta tự tin để làm chủ cuộc sống. Dòng sông không chỉ mang phù sa màu mỡ làm xanh những cánh đồng mà là nguồn nước tắm mát đời ta, gắn bó đến mức như Hoàng Cầm mang theo hình ảnh con sông Đuống quê hương trong hồn với dáng nghiêng nghiêng dài theo cuộc kháng chiến. Và khi sông Đuống tạm thời bị quân giặc chiếm đóng, ông đau đớn bàng hoàng đến mức thốt lên lời than nhức nhối: "Sao xót xa như rụng bàn tay".

Nêu một địa chỉ hẹn hò mà thành Đất Nước nghe có vẻ mơ hồ, nhưng nó là minh chứng của tình yêu, là khởi phát của một gia đình, và có muôn nhà mới góp thành đất nước. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và Tổ Quốc, là sự thống nhất liền mạch mỗi tấc đất của quê hương, tồn tại trong "thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông".Trong ấy, bao thế hệ nối tiếp nhau quản lí đất nước từ dãy Trường Sơn hùng vĩ - "Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” cho đến biển bờ Thái Bình Dương vỗ sóng mênh mang - nơi "Con cá ngư ông móng nước biển khơi". Nguyễn Khoa Điềm với một tình cảm tự hào, ông gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt gợi ra cái chất keo đồng bào huyết mạch - yếu tố tạo nên tình đoàn kết "dân mình đoàn tụ” bên nhau đứng vững như Trường Sơn thử thách với bao mưa gió của trời, của đời.

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau.

Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

Nguyễn Khoa Điềm trong chiều xúc cảm hướng nội, ông còn thấy ra Đất Nước đã thâm nhập vào trong chiều sâu của mỗi con người. Trong chính bản thân thi sĩ đã chan hoà bóng hình tinh hoa của đất nước, tan trong dòng máu thắm, vang lên trong âm điệu giọng nói ngọt ngào. Nhà thơ cảm nghiệm rằng:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn.
Quả là tinh tế! Nguyễn Khoa Điềm như đang tự phân thân để kiểm chứng lại mình. Đất Nước trong ta hài hoà nồng thắm, thấy được qua màu da, giọng nói, nếp nghĩ, cách làm. Mang quốc tịch Việt , khi ta so sánh trong mối tương quan với bạn bè quốc tế, thì nhận diện sự khác biệt ấy không mấy khó khăn. Nó giúp ta tự hào với lịch sử anh hùng, với giang sơn cẩm tú, với dân tộc nhân ái bao dung, với mỗi con người thuỷ chung trách nhiệm, để rồi lòng dặn lòng rằng:

Mai sau này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Nhà thơ với con mắt thăm thẳm nhìn sâu về "bốn nghìn năm đất nước", lung linh trong cõi mênh mang sông núi Việt Nam ấy, không ai khác là Nhân Dân bình dị, nhưng:

Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Từ những ý niệm đúng đắn ấy nhà thơ đi đến một kết luận quan trọng:

Đất nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Chân lí hiển nhiên là vậy nhưng không phải ai cũng ý thức. Nguyễn Khoa Điềm
 nhắc lại và nhấn mạnh qua từ "Nhân Dân" viết hoa trân trọng ấy, thiết nghĩ không thừa đối với những kẻ phôi phai tình đất nước. Nhà thơ so sánh Đất Nước như một dòng sông chảy mãi từ quá khứ cho đến tương lai trường tồn cùng nhân loại. Trên dòng chảy ấy tất có những thác ghềnh, nhưng điều ấy có hề chi khi nhân dân là người chèo lái con thuyền Tổ quốc, thì nói như Bác Hồ: "khó vạn lần dân liệu cũng xong". Thi nhân đã khép lại dòng suy tưởng của mình bằng một giai điệu đầy lạc quan:'


Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát 

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...
Tiếng hát của 
Nguyễn Khoa Điềm cất lên trong thời gian khó bởi cuộc chiến tranh chống Mỹ chưa thành, nhưng lịch sử luôn như dòng nước chảy xuôi ; vấn đề là con người "biết trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu" .
Hôm nay, nhìn lại Đất Nước vẹn tròn to lớn, dù kinh tế còn khó khăn, nhưng chúng ta lại có sức mạnh của độc lập tự do làm tiền đề căn bản, có nhân dân sáng tạo anh hùng, chắc chắn lớp con cháu hôm nay "sẽ mang Đất Nước đi xa, đến những tháng ngày mơ mộng" trong một tương lai không xa, để Nhân Dân từng chịu quá nhiều vất vả nhọc nhằn trong quá khứ có được cuộc đời hạnh phúc trong bầu không khí hoà bình thắm tình hữu nghị.
Sưu tầm

Tư liệu tham khảo về tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông

1. Vẻ đẹp sông Hương

a) Sông hương vùng thượng lưu


Sông Hương vùng thượng lưu mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn, sâu thẳm nhưng cũng có lúc dịu dàng, say đắm.

- Sự mãnh liệt, hoang dại của con sông được thể hiện qua những so sánh : “Bản trường ca của rừng già”, những hình ảnh đầy ấn tượng : (“rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”)

- Vẻ dịu dàng, say đắm : những sắc màu rực rỡ (“những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”).

- Dòng sông được nhân hoá : như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại, rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Đó là sức mạnh bản năng của người con gái, sức mạnh ấy được chế ngự bởi cấu trúc địa lý lãnh thổ để đi ra khỏi rừng, nó “nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá sứ sở”.

- Ngay từ đầu trang viết, người đọc đó cảm nhận được sự tài hoa của ngũi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường : liên tưởng kì thú, xác đáng, ngôn từ gợi cảm,... Tất tạo sức cuốn hút, hấp dẫn về một con sông mang linh hồn, sự sống, kết thúc đoạn văn, tác giả giới thiệu trọn vẹn con sông (tâm hồn sâu thẳm của nó) vừa dẫn dắt, gợi mở sang đoạn tiếp theo sẽ miêu tả khuôn mặt kinh thành của dòng sông.

b) Sông Hương đoạn chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố

Lúc này, sông Hương được ví “như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” được “người tình mong đợi” đến đánh thức. Kiến thức địa lý đã giúp tác giả miêu tả tỉ mỉ sông Hương với những khúc quanh và lưu vực của nó.

Đoạn văn thể hiện năng lực quan sát tinh tế và sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng giúp nhà văn viết được những câu văn đầy màu sắc tạo hình và ấn tượng : “Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “ Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa 2 dãy đồi sừng sững như thành quách, dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi ”. Rồi “giữa đám quần sơn lô xô ấy là giấc ngủ nghìn thu của vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tầm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu”.

Vận dụng kiến thức về văn hoá, văn học, tác giả tạo cho người đọc ấn tượng về vẻ đẹp trầm mặc, như triết lý, như cổ thi gắn với những thành quách, lăng tẩm của vua chúa thuở trước.

c) Sông Hương khi chảy vào thành phố

Nếu ở trên, người đọc cảm nhận phần nào tính chất vẻ đẹp man dại, dịu dàng, trầm mặc của con sông thì giờ đây con sông được khám phá, phát hiện ở sắc thái tâm trạng. Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn tình yêu, trở nên vui tươi và đặc biệt chậm rãi, êm dịu, mềm mại. Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đẽ đến bất ngờ, lý thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông. Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối” ; “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non”, sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến”, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, “nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh” làm dòng sông thêm lộng lẫy, con sông ngập ngừng như có : “những vấn vương của một nỗi lòng” không nỡ rời xa thành phố. (liên hệ câu thơ Thu Bồn : con sông dùng dằng, con sông không chảy / Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu)

- Qua thành phố, sông Hương trôi thật chậm, thực chậm, “cơ hồ chỉ còn là một hồ yên tĩnh” Tác giả so sánh với dòng chảy tốc hành của sông Nê-va để thấy quý hơn điệu chảy lặng lờ của sông Hương khi ngang qua thành phố nhìn nó như là “vấn vương của một nỗi lòng”

- Liên hệ với thơ Hàn Mặc Tử, thơ Tố Hữu khi viết về sông Hương êm đềm thơ mộng.

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
(Hàn Mặc Tử)

Hương Giang ơi, dòng sông êm
Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình
(Tố Hữu)

Sông Hương mang vẻ đẹp lững lờ, êm đềm, trầm lắng, nó bình thản, chậm rãi như tâm tính người Huế vậy.

- Kiến thức âm nhạc được tác giả huy động với liên tưởng kỳ thú “điệu chảy lặng tờ” của con sông khi ngang qua thành phố : “Đấy là điệu Solon tình cảm của Huế”. Câu thơ trong truyện Kiều tả tiếng đàn (trong như tiếng hạc bay qua) cũng gợi nhớ đến làn điệu nhạc cung đình Huế “Tứ đại cảnh”

=> Phải rất hiểu sông Hương, tác giả mới cảm nhận thấm thía vẻ đẹp con sông lúc đêm sâu. Đó là lúc mà âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành. Khi đó, trong không khí chùng lại của dòng sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya

2. Ai đã đặt tên cho dòng sông ?

Bài kí kết thúc bằng cách lý giải về cái tên của dòng sông, nhấn mạnh bằng một huyền thoại mĩ lệ, mang đến cho tác phẩm sắc màu lãng mạn. Đó là chuyện về cư dân hai bên bờ sông nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Huyền thoại về tên dòng sông đã nói lên khát vọng của con người ở đây muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá, lịch sử, địa lý quê hương mình. Việc đặt tên cho bài kí thống nhất với phần kết thúc chẳng những lưu ý người đọc về vẻ đẹp của dòng sông mà còn gợi lên niềm biết ơn đối với những người đã khai phá miền đất lại. Kết thúc bài kí đọc lại một niềm buâng khuâng trong tâm hồn người đọc :

Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế không quên ?

3. Nét đặc sắc của văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường

+ Bút kí : Ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tuỳ thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập đến (Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Hà Nội 2004)

Tuỳ bút ghi lại một cách tương đối tự do những cảm nghĩ của người viết, kết hợp với việc phản ánh thực tế khách quan.

- Điểm chung : Sự thành công của 2 thể loại đều tuỳ thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, khám phá, diễn đạt của người viết với đối tượng phản ánh, đều đòi hỏi sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, trí tuệ và cảm xúc.

- Điểm riêng : Bút kí mang tính chặt chẽ hơn, tuỳ bút mang tính tự do hơn, nó mang đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ chân chính. Tùy bút mang đậm chất thơ

+ Nét đặc sắc của văn phong tác giả qua đoạn trích

- Soi bóng tâm hồn với tình yêu say đắm, lắng sâu niềm tự hào tha thiết quê hương xứ sở vào đối tượng miêu tả khiến đối tượng trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như đời sống, như tâm hồn con người.

- Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân 

- Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như : So sánh, nhân hoá, ẩn dụ,...
- Có sự kết hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan.

(Sưu tầm)

Suy nghĩ về tình mẫu tử



SUY NGHĨ VỀ TÌNH MẪU TỬ

“ Buổi sớm mai ướm bước chân mình lên vết chân trên cát
Bà mẹ đã cho ra đời những Phù Đổng thiên vương
Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay những anh hùng
Là bác học… hay là ai đi nữa
Vẫn là con của một người phụ nữ
Một người đàn bà bình thường, không ai biết tuổi tên”
Những câu thơ bình dị của nữ nhà thơ Xuân Quỳnh làm tôi bất giác nghĩ về tình mẹ. Mẹ- tiếng gọi nghẹn ngào mà thân thương đến lạ. biết bao ấm áp, bao niềm vui, bao sung sướng đầy vơi chất trong tiếng gọi ấy. Có lẽ rằng, viết về mẹ mãi mãi là dề tài không mới nhưng không bao giờ cũ trong dòng chảy văn học. Tình cảm nhân bản và cao đẹp ấy ta đã bắt gặp trong Nắng mới của Lưu Trọng Lư, Con cò của Chế Lan Viên… và rất nhiều, rất nhiều bài thơ khác nữa. nhưng không hiểu sao hai câu thơ của Nguyễn Duy trong bài Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa cứ ám ảnh, cứ day dứt trong lòng tôi mãi:

Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết những lời mẹ ru

Đây là hai câu thơ xúc động, sâu lắng và hàm súc trong một bài thơ viết về mẹ. Tiếng thơ ngọt ngào mà dung dị, chân thành mà tha thiết của Nguyễn Duy giờ nén lại trong hai câu lục bát. Không mĩ miều về ngôn từ,những đúc kết cũng giản dị như không nhưng vẫn có sức lay thức ta tận nhưng miền sâu thẳm. Vẻ đẹp của hai câu thơ toát lên từ tính trữ tình. Đó là chất thơ- chất nhạc ắp đầy lên từng câu chữ. Tình cảm biết ơn được thể hiện ở dòng cảm xúc vừa lắng đọng vừa thiêng liêng. Không hiểu sao đọc hai câu thơ, miền nhớ trong tôi lại chợt vọng về giai điệu bài hát Mẹ yêu con của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tí. Đúng rồi, đúng là tiếng thơ, là tiếng nhạc: “À ru hời, à hời ru”… Tấm lòng trân trọng, sự thấu hiểu và sự biết ơn muôn vàn của người con đối với mẹ được khởi phát từ tận sâu thẳm cõi lòng, thổn thức trong trái tim, lan tỏa nơi đầu ngọn bút để dồn nén lên hai câu thơ ấy.

Câu thơ còn đậm tính triết lý. Những triết lý tự nhiên không hề xa vời, phù phiếm. Đó không phải là triết lý thuần trí tuệ mà là triết lý của trái tim bởi ở đó cái ý thơ, cái tình của người làm thơ đã hòa lắng, bện quyện vào nhau. “Mấy lời mẹ ru” là biểu tượng cho tình cảm thương yêu vô bờ mẹ dành cho con. Cách nói “đi trọn kiếp” cũng “không đi hết” đã khẳng định tình mẹ là vô cùng lớn lao, thiêng liêng, là cao cả, bất tử, và vô tận, không sao có thể đền đáp hết được. Giai điệu trữ tình mênh mang hòa lẫn vào độ đằm sâu của triết lý đã nói hộ được lòng biết ơn sâu sắc của người con đối với mẹ. Tiếng lòng ấy vấn vương một nỗi yêu thương sâu lắng. Những xúc cảm ấy có được nhờ sự lên ngôi của những trải nghiệm, những nông- sâu- vơi- cạn, ý vị của cuộc đời.

Tình mẫu tử là tình cảm thương yêu đùm bọc, chở che vỗ về…mà người mẹ dành cho con. Từ dòng sữa ngọt thơm dưỡng nuôi con lớn lên về mặt thể chất, đến lời ru êm đềm tưới mát tâm hồn con, cho con lớn lên về mặt tâm hồn. Rồi đến “bát cơm con ăn tay mẹ nấu”, “bát nước con uống tay mẹ đun”… những tình cảm cao quý ấy, sự yêu thương của mẹ đối với “hạt máu cắt đôi” vừa tự nhiên, vừa cao cả nên nó sẽ đi theo mỗi người suốt cuộc đời.

Trong đời sống con người có nhiều thứ tình cảm cao đẹp: đó là sự kính trọng đối với ông bà, là sự nhường nhịn bảo ban nhau của anh chị em, đó là sự sẻ chia buồn vui giận hờn của tình bạn, đó cũng có thể là vị ngọt ngào pha lẫn đắng cay của tình yêu đôi lứa. Và hơn thế, rộng hơn là tình cảm với quê hương, đất nước, với cội nguồn. Nhưng tình mẫu tử vẫn có một vị trí đặc biệt, thiêng liêng và máu thịt nhất.

Bởi đó là tình cảm đầu tiên của mỗi người khi sinh ra và sẽ gắn bó trong suốt cuộc đời. Khuôn mặt đầu tiên, nụ cười đầu tiên…mà ta bắt gặp chính là mẹ. Chính vì thế nó sẽ gắn bó trong suốt cuộc đời ta. Hơn thế nữa, đó là tình cảm vừa có yếu tố máu thịt vừa mang tính tinh thần cao cả. Đứa con là “hạt máu cắt đôi của mẹ”, là sinh linh bé bỏng mà mẹ đã mang nặng đẻ đau trong suốt hơn chín tháng. Niềm vui, giọt nước mắt, hạnh phúc xen lẫn đau đớn tuôn trào và vỡ òa ra khi con cất tiếng khóc chào đời. Tình cảm ấy vừa là động lực, vừa là hành trang trên con đường dài rộng của con sau này.

Hạnh phúc biết bao khi ta được sống trong tình mẫu tử.

Được sống trong tình mẫu tử là ta được sống trong sự nâng niu, chở che. Được sống trong tình mẫu tử là ta có được sức mạnh để vượt lên khó khăn trong cuộc sống. Con vấp ngã, mẹ hiền từ đỡ con dậy, tiếp cho con nghị lực, con có lỗi mẹ sẵn sàng tha thứ, dang rộng vòng tay giúp con có cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Bài học làm người con đâu chỉ được học ở trên lớp, ở thầy, ở cô mà con còn từng được học ở mẹ nữa. Lòng mẹ khoan dung, trái tim mẹ dạt dào tình thương.

Cảm thấu tấm lòng, đức hi sinh bao la của mẹ, những người con phải làm gì để đền đáp công lao đó? Không đâu, không bao giờ ta trả nổi những gì mà mẹ đã làm cho ta. Khi còn thơ bé, một điểm mười đỏ chói con mang về khoe là niềm hạnh phúc của mẹ. Khi lớn lên, con có một gia đình hạnh phúc, sống trong đủ đầy là lòng mẹ đã vô cùng mãn nguyện.

Phải rồi, chỉ có thế thôi. Mẹ chỉ cần có thế!

Ấy vậy mà trong xã hội hiện nay, vẫn còn đâu đó những đứa con đã vô tình với người đứt ruột sinh ra mình. Cách đây không lâu, bản tin thời sự trên truyền hình đã đưa tin một người con trai đánh đập mẹ ngay tại chính gian bếp nhà mình. Có những người coi việc mẹ chăm sóc nuôi nấng mình là trách nhiệm và việc mình “bố thí” cho mẹ lúc về già một ít tiền đã là hoàn thành nhiệm vụ của bậc làm con. Thật đáng hổ thẹn với những quan điểm sai lệch, thiển cận của những người con bất hiếu ấy…

Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi ý thức cá nhân con người được khơi dậy và đề cao thì mỗi người càng cần phải nhìn nhận lại những thái độ tình cảm của mình với mẹ. Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại đã có những dòng thơ nói về một tuổi trẻ bồng bột với những ngộ nhận và thiên kiến:

“Con mê hoặc những chân trời cối bể
Sau chân trời, chân trời khác càng xa
Không biết sau lưng tóc mẹ sương nhòa
Không biết cuộc đời là gang tay, công danh là mây nổi”…


Với tôi, với một cô bé mười sáu tuổi, đã không ít lần tôi giận mẹ, không ít lần tôi nỡ cư xử không hay với mẹ. nhưng với tôi mẹ mãi là nguồn yêu thương, nguồn động lực giúp tôi những khi gặp khó khăn.
Quê tôi ở miền đất gió lào cát trắng. Giờ đây, những trận mưa vẫn xối xả rơi, cái rét ngọt cuối năm đang tràn về và bàn chân khô nứt nẻ của mẹ lại lội xuống bùn. Rồi mẹ lại đọi nón đưa tôi tới trường trong cái lạnh tê tái và trở về trong ánh chiều chạng vạng.

Mẹ ơi, năm nay con đi học xa nhà, con mong trường sẽ cho nghỉ sớm, để con được về phụ giúp mẹ cấy lúa mẹ nhé!
Con thầm cảm ơn thượng đế chí nhân đã ban cho con một người mẹ, cho con nhận được từ cõi lòng mẹ tình yêu thương, sự chở che. Mãi khi con lớn lên mười sáu con mới cảm nhận được phần nào tình thương của mẹ. Những đùm trứng, bó rau, những quả chanh, những cân gạo…tất cả là bao ngọt bùi năm tháng mẹ chắt chiu nuôi con ăn học…

Cảm ơn nhà thơ Nguyễn Duy đã cho tôi được lắng đọng trong tình mẹ…
(sưu tầm - từ văn học và tuổi trẻ)

bạn cho rằng thế nào là sành điệu?

Đề bài . “Nhiều người cho rằng sành điệu là ăn mặc đúng mốt và đi trước mốt, là dùng đồ vật đắt tiền và khác người …nhưng những người từng trải lại bảo rằng: sành điệu nhất chính là biết chấp nhận thử thách và dấn thân vào thử thách của cuộc đời”.
(Theo 24h.com.vn)

Còn bạn, bạn cho rằng thế nào là sành điệu? Viết 1 bài văn nghị luận với nhan đề “sành điệu


Gợi ý:

- Xã hội đang phát triển, con người sống trong xã hội ấy nếu ko học hỏi, cập nhật hiểu biết thì sẽ bị lạc hậu…

- Ăn mặc đúng mốt, đi trước mốt, dùng đồ vật đắt tiền cũng là sành điệu tuy nhiên cái sành điệu ấy chỉ là cái hào nhoáng bên ngoài.

- Con người quan trọng cần có sự hiểu biết, mà muốn có hiểu biết thì phải biết học hỏi.

- Con đường học hỏi nhiều khi ko bằng phẳng mà lắm chông gai vì thế ta phải biết chấp nhận thử thách và dấn thân vào thử thách…

(Đây chỉ là những định hướng cảu riêng người ra đề . Học sinh có thể có những suy nghĩ và những cách hiểu khác, hợp lí, thuyết phục hơn)

(Văn học và tuổi trẻ số tháng 12- 2009)

Bài làm cụ thể:

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, để theo kịp mốt thời thượng, nhiều bạn cho rằng mỗi chúng ta phải biết sống sành điệu. Bởi họ quan niệm : sành điệu là cái mốc đầu tiên đánh giá 1 con người trong thời đại @. Vậy thế nào mới là sành điệu thực sự? Là ăn mặc đúng mốt và đi trước mốt với những món đồ vật đắt tiền , khác người hay là biết chấp nhận dấn thân vào thử thách cuộc đời?

Hai từ “sành điệu” đã tồn tại trong cuộc sống của chúng ta quen thuộc đến nỗi thậm chí nó còn được coi là câu cửa miệng của 1 số người: “chuyện, sành điệu mà” hay “con nhỏ đó trông sành điệu nhỉ?”, “sành điệu mới là tôi”… Nói đến sành điệu thường người ta chỉ nghĩ về mặt vật chất tức là cái bề ngoài của 1 con người như dùng điện thoại di động “xịn”, ăn mặc “style”, chơi trội….mà ít ai quan niệm sành điệu về mặt tâm hồn. Chẳng hạn như chúng ta ko nói 1 người đã vượt lên thử thách của cuoojcn sống là “Anh ấy thật sành điệu” Mặc dù đó có thể là 1 lời khen nhưng người nghe lại ko nghĩ vậy. Đơn giản vì từ sành điệu thâm nhập trong cuộc sống của chúng ta được hiểu chủ yếu theo nghĩa đen của nó, tức là anh phảo ăn mặc hợp mốt, đi trước mốt, xài đồ đắt tiền mới được gọi là sành điệu. Quan niệm sành điệu này xuất hiện phổ biến trong giới trẻ, sành điệu là cách thể hiện đẳng cấp pro, để tự hào vì mình là con người thời thượng. Hơn nữa tâm lí giới trẻ là ham thích những cái mới, cái lạ nên họ tiếp thu “mốt” rất nhanh. Cứ như thế như những con vi rút, các kiểu mốt lan truyền trong cộng đồng teen, đánh vào tâm lí của họ, tạo nên lối sống “sành điệu”.

Quê rồi, sành điệu thời nay là phải ăn mặc như tao đây này – Tôi choáng váng khi cô bạn 17 tuổi của mình, mặc quần bò rách lỗ chỗ, túi dây lằng nhằng với những xích, đi giày cao gót 10 phân chưa kể tóc tai xõa xợi, làm xoăn chẳng giống ai. Sành điệu kiểu ấy nói thật tôi xin kiếu. Nếu sành điệu mà chỉ khiến người nhìn cảm thấy phản cảm, sành điệu mà biến mình thành người kì lạ nào đó thì đó là “sành điệu dởm”. Sành điệu ko đồng nghĩa với việc dùng đồ đắt tiền, xài hàng hiệu theo phương châm của giới trẻ ngày nay “ăn chơi là sành điệu – dùng hàng hiệu, tiêu tiền triệu”… Muốn gây ấn tượng cho người khác ko nhất thiết bạn phải đeo kính hiệu Gucci, đồng hồ Swatch, túi xách hiệu LV hay mặc quần áo hiệu D&G, NEM.. Bởi đôi khi nó còn trở nên kệch cỡm nếu người dùng ko biết cách phối hợp thời trang. Sành điệu mà quá sức với hoàn cảnh, ko hợp lứa tuổi là điều ko nên, chỉ khiến người khác nhìn nhận, đánh giá về phẩm cách của mình ko tốt. Cho nên, có nhiều bi kịch xảy ra xung quanh chuyện teen lỡ sành điệu mà ko dám trở lại với con người của mình vì sợ bạn bè chê cười. Đừng để mình trở thành “trưởng giả học làm sang” bạn nhé.

Suy cho cùng sành điệu là để mình ăn mặc đẹp hơn . Vậy tại sao bạn ko thử ăn mặc giản dị, trang nhã mà vẫn hợp mốt? Không cần dùng đồ đắt tiền mà vẫn khiến cho bản thân đẹp hơn, bạn bè ghen tị, như thế bản lĩnh của bạn càng được chứng tỏ hơn. Bạn thấy đấy, thực tế có rất nhiều nhà thiết kế thời trang nổi tiếng, nhiều người mẫu ăn mặc trang nhã mà vẫn đẹp. Cái đẹp toát lên bởi khí chất của người mặc, bởi phong thái và cử chỉ, nụ cười, cách nói năng. Cái đẹp của sự sành điệu là cái đpẹ tạo cho người khác cảm giác dễ chịu, bắt mắt chứ ko phải là cái đẹp kì dị, khác người….Thiết nghĩ lối ăn mặc khác người chỉ là cách đua đòi lố lăng chứ chẳng thể nào chứng tỏ anh là dân sành điệu, có chăng đó chỉ là lối sành điệu dởm như tôi đã nói ở trên.

Có thể khẳng định rằng nhu cầu ăn mặc sành điệu đúng mốt, đi trước mốt của giới trẻ hiện nay là nhu cầu chính đáng, ko có gì là sai trái cả. Nhưng mỗi chúng ta cần phải biết cách sành điệu
 và sành điệu như thế nào cho đúng, cho hợp với chính mình mới là điều quan trọng. Sành điệu rốt cục cũng nhằm mục đích tạo thương hiệu cho mình để cho người khác nhìn vào mà phải khâm phục, ngưỡng mộ, trầm trồ khen ngợi. Lối sành điệu về ăn mặc, dùng đồ vật đắt tiền chỉ là cái bề ngoài ko có giá trị lâu dài với thời gian, đó là cách sành điệu rất dễ dàng để tạo dựng, vì thế luôn luôn phải thay đổi, luôn phải đua tranh ai mới sành điệu hơn, chỉ tốn tiền của, thời gian , gây ra mệt mỏi. Sành điệu nhát chính là mỗi chúng ta phải biết dấn thân vào thử thách cuộc đời, biết chấp nhận thử thách. Như vậy, chũng ta ko chỉ đạt được cái đích cuối cùng của sành điệu mà bản thân bạn cũng khám phá ra được rất nhiều điều về chính bản thân mình như lòng dũng cảm, sự tự tin, lối sống có trách nhiệm… Một phóng viên trẻ tuổi mới vào nghề dám thâm nhập thực tế để lấy tư liệu về những vụ tham nhũng của doanh nghiệp , những hành vi thương mại gian lận, những hành động trái pháp luật…mà ko sợ hiểm nguy; một người kinh doanh trẻ tuổi sẵn sàng đầu tư tiền vào công ti vào lĩnh vực mà mọi đều cho rằng nó ko mấy khả quan chỉ vì anh ta có lòng tin rằng công ty ấy tuy nhỏ nhưng vẫn đầy tiềm năng phát triển; một cô gái mắc chứng câm điếc nhưng với lòng yêu chiếc đàn vĩ cầm , với âm thanh tuyệt diệu mà nó mang đến cho người khác nên vẫn miệt mài luyện tập hàng ngày và trở thành nghệ sĩ nổi tiếng, 1 tấm gương sáng cho mọi ngươi học tập theo cả về nghị lực ý chí lẫn tài năng… Tất cả họ đều là những người sống đẹp – lỗi sống ấy mới thực sự là lối sống khiến chúng ta ngẫm nghĩ và noi theo – lối sống sành điệu.

Nếu bạn là Fan của bộ phim hoạt hình Walt Disney nổi tiếng thì chắc hẳn các bạn đã phải biết Disney đã từng trải qua thất bại cay đắng ngay từ những ngày đầu vào nghề , khi bị ông chủ tòa soạn sa thải vì khả năng sáng tạo kém: “Khi đó tôi mới 21 tuổi, ko tiền bạc, ko danh vọng, tôi gần như sụp đổ khi ngày nào cũng phải ngủ trên chiếc xô pha rách tươm, ăn mãi một món khoai tây nghiền và phải sống trong căn nhà ổ chuột”. Walt Disney đã từng phải sống như vậy trong cả 1 thời gian dài để tên tuổi ông mới được biết đến nổi tiếng như ngày hôm nay. (Theo Hạt giống tâm hồn, tập 5, tr146).

J. Rowling – tác giả của bộ truyện Harry Potter nổi tiếng toàn thế giới- 1 trong những nhà văn giàu có nhất trong lịch sử với tổng tài sản hơn 1 tỉ đô la – trước đây chỉ là 1 bà mẹ nghèo sống bằng tiền trợ cấp của xã hội. Bà đã ko từ bỏ ước mơ tở thành 1 nhà văn dù cho cuộc sống có khó khăn đến đâu, dù tác phẩm của và đã bị từ chối đến 12 lần trước khi xuất bản. Bà cũng như Walt Disney đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng: thành công nào cũng phải trả giá bằng nỗ lực, cố gắng. Để trưởng thành hơn và khẳng định mình cần phải biết chấp nhận thử thách và dấn thân vào thử thách cuộc đời.

Sành điệu ngày nay, mà có lẽ ở thời đại nào cũng vậy, chính là sống ko bao giờ được nói đến 2 từ “gục ngã”. Anh sẽ khằng định được chính mình trên lĩnh vực mà anh thành công, mọi người sẽ nhắc đến tên anh đầy tự hào, kính trọng nếu anh sống 1 cuộc sống có ý nghĩa. Cái bề ngoài của quần áo hay đồ vật đắt tiền có thể sẽ mốt lúc này nhưng sẽ là lỗi mốt của tháng sau, năm sau….Giá trị vật chất hào nhoáng ở bên ngoài, nó dễ thu hút các bạn trẻ nhưng rồi cũng dễ trở nên nhàm chán và trở thành thứ đồ cũ ko giá trị. Người ta sẽ chỉ nhớ đến nó trong hoài niệm: À, nó đã từng là mốt của năm ngoái…. “Nói cho cùng, để sống được hàng ngày, tất nhiên cũng phải nhờ vào những giá trị tức thời. Nhưng sống cho có phẩm hành, có cốt cách nhất định phải dựa vào những giá trị bền vững” (Nguyễn Khải- Tuyển tập tiểu thuyết)

Tôi ko phản đối quan niệm của những người trẻ tuổi về cách sống sành điệu thời trang nhưng cũng ko hoàn toàn đồng tình. Ý nghĩa thực sự của sành điệu thiết nghĩ là để mỗi chúng ta nhận thức được đâu là giá trị bền vững và đâu là con đường đi bằng tinh thần hơn là con đường thể hiện mình theo kiểu “tốt nước sơn”. Bạn thì sao? Bạn sẽ chọn con đường nào để chứng tỏ mình trong cuộc sống?
Nguyễn Thị Thu Hằng
Lớp 12A4 – THPT Nguyễn Đức Cảnh- Tp. Thái Bình – Thái Bình
(VH – TT số tháng 3 – 2010) 

Trình bày quan điểm của bạn về vai trò, ý nghĩa của việc học Văn trong xã hội ngày nay


Đề bài: Trình bày quan điểm của bạn về vai trò, ý nghĩa của việc học Văn trong xã hội ngày nay

Nội dung cần nêu


Vai trò, ý nghĩa của môn Ngữ văn trong nhà trường và trong xã hội:


- Giúp con người nhận thức được cái hay , cái đẹp chuẩn mực trong cuộc sống. Vì văn học, khoa học nhân văn là những kết tinh tinh hoa văn hóa nhân loại, lưu truyền những giá trị tốt đẹp của con người qua các thời đại. Giúp con người có bản lĩnh, có suy nghĩ, ứng xử, lối sống đúng đắn , lành mạnh .

- Nếu thiếu văn học, con người sẽ rơi vào bi kịch, như một nhà văn Mê hi cô đã nói: Bi kịch của thời đại chúng ta là thừa trí tueetj, thiếu tâm hồn.

- Môn Ngữ văn là môn học thuộc nhóm công cụ, học tốt Ngữ văn sẽ có tác động tích cực đến các môn học khác…


Nguyên nhân hiện tượng học sinh, sinh viên không thích học văn:


- Do lối sống, suy nghĩ thực dụng của học sinh, phụ huynh.

- Do đội ngũ giáo viên dạy văn tâm huyết với nghề ngày càng ít. Nhiều giáo viên bị gánh nặng cuộc sống nhọc nhằn làm mất niềm say mê văn học vốn có.

- Nhiều trường học chưa quan tâm đến đặc thù môn học, chưa có đầu tư, bồi dưỡng giáo viên, chưa có những hoạt động ngoại khóa văn chương để thu hút học sinh…


Một vài phương hướng tháo gỡ:


- Cần có sự quan tâm, hợp sức của toàn xã hội: gia đình, nhà trường, cơ quan nhà nước hướng học sinh chú ý đến vai trò của việc học văn.

- Cần có những giải thưởng tôn vinh tài năng văn học một cách xứng đáng.

- Mở rộng ngành nghề cho các khối thi các môn xã hội…
Nguyễn Thị Thu
GV. THPT Bình Giang – Hải Dương
VH&TT số tháng 5 – 2009